Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

05. Nghi lễ trao y Kathina của chư Tăng

30/10/201214:54(Xem: 6471)
05. Nghi lễ trao y Kathina của chư Tăng

LỄ DÂNG Y KATHINA

Tỳ khưu Hộ Pháp

NGHI LỄ TRAO Y KATHINA CỦA CHƯ TĂNG

Theo truyền thống của chư Tỳ khưu Tăng tại nước Thái Lan, tất cả chư Tỳ khưu đã an cư nhập hạ xong tại ngôi chùa ấy, và có thí chủ có đức tin trong sạch nơi Tam Bảo làm lễ dâng y kathina đến chư Tỳ khưu Tăng. Chư Tỳ khưu Tăng đã thọ nhận y kathina của thí chủ xong, tất cả chư Tỳ khưu Tăng đều tụ họp tại sīmā. Trước tiên, chọn một vị Tỳ khưu biết đầy đủ 8 chi pháp xứng đáng thọ nhận tấm y kathina của chư Tăng, để làm lễ thọ y kathina của chư Tăng, đúng theo luật mà Đức Phật đã chế định và ban hành đến chư Tỳ khưu Tăng.

Chư Tỳ khưu Tăng thỉnh 2 vị luật sư làm lễ trao y kathina của chư Tăng, nghi lễ theo tuần tự như sau:

1- Apalokanakamma: Việc Tường Trình

Vị Tỳ khưu luật sư thứ nhất tường trình y kathina giữa chư Tỳ khưu Tăng đang tụ họp tại sīmā như sau:

LS1: Kính bạch chư Tỳ khưu Tăng được rõ, y kathina cùng với các thứ vật dụng này của những thí chủ, người thay mặt là........................ [31]cùng với các bà con, bạn bè là những người có đức tin trong sạch nơi Tam Bảo, tin nghiệp và quả của nghiệp, mong tạo phước thiện ba-la-mật, gieo duyên lành để mong chứng ngộ Niết Bàn, giải thoát khỏi cảnh khổ tử sinh luân hồi trong ba giới bốn loài. Cho nên những thí chủ ấy đã cùng nhau làm lễ dâng y kathina cùng với các thứ vật dụng này đến chư Tỳ khưu Tăng đã an cư nhập hạ suốt trong 3 tháng mùa mưa tại ..............(tên chỗ an cư nhập hạ)

Y Kathina này đã phát sinh một cách hoàn toàn trong sạch, ví như từ trên hư không rơi xuống giữa chư Tỳ khưu Tăng, không phải dành riêng cho một vị Tỳ khưu nào cả.

Đức Phật cho phép chư Tỳ khưu Tăng chọn một vị Tỳ khưu biết đầy đủ 8 chi pháp, để xứng đáng làm lễ thọ y kathina của chư Tăng. Chọn lựa đặc biệt ưu tiên cho vị Tỳ khưu nào có y rách, y cũ hoặc bậc Đại trưởng lão cao hạ nhất, là bậc có giới đức trong sạch, có hiểu biết đầy đủ 8 chi pháp để xứng đáng làm lễ thọ y kathina của chư Tăng.

Vậy bây giờ tất cả chư Tỳ khưu Tăng đồng nhận xét thấy vị Tỳ khưu nào xứng đáng, kính xin quý Ngài cho phép dâng tấm y kathina của chư Tăng này đến vị Tỳ khưu ấy.

2- Giới Thiệu Vị Tỳ khưu Thọ YKathina:

LS2: Kính bạch chư Tỳ khưu Tăng được rõ: Con xét thấy vị Đại đức Tissa[32]là bậc xứng đáng làm lễ thọ y kathina của chư Tăng. Nếu vị Tỳ khưu nào không chấp thuận, xin phát biểu lên giữa chư Tăng. (ngừng một lát)

Nếu chư Tỳ khưu Tăng đều chấp thuận, kính xin quý Ngài nói lên lời hoan hỷ: Sādhu! Sādhu! Sādhu!

(Sau khi chư Tỳ khưu Tăng đã chấp thuận bằng lời “sādhu” vị Tỳ khưu luật sư thứ nhất nói tiếp).

LS1:Kính bạch chư Tỳ khưu Tăng được rõ: Chư Tỳ khưu Tăng đã chấp thuận dâng y kathina đến Đại đức “Tissa”, để làm lễ thọ y kathina, không phải bằng lời apalokanakamma, mà phải bằng cách hành Tăng sự Ñattidutiyakammavācā đúng theo luật của Đức Phật đã ban hành, chúng con xin phép hành Tăng sự bây giờ.

Hành Tăng Sự Trao YKathina

Ví dụ: Vị Tỳ khưu được chọn thọ y kathina có đặt tên là Đại đức Tissa, thì pháp hành tăng sự sẽ tụng như sau:

- Ñatti:

Suṇātu me Bhante Saṃgho, idaṃ Saṃghassa kathinacīvaraṃ[33] uppannaṃ. Yadi Saṃghassa pattakallaṃ, Saṃgho imaṃ kathinacīvaraṃ Tissassa” bhikkhuno dadeyya kathinaṃ attharituṃ. Esā ñatti.

- Kammavācā:

Suṇātu me Bhante Saṃgho, idaṃ Saṃghassa kathinacīvarạm uppannaṃ, saṃgho imaṃ kathinacīvaraṃ “Tissassa” bhikkhuno deti kathinaṃ attharituṃ.

Yassāyasmato khamati, imassa kathinacīvarassa “Tissassa” bhikkhuno dānaṃ kathinaṃ attharituṃ. So tuṇhassa, yassa nakkhamati so bhāseyya.

Dinnaṃ idaṃ Saṃghena kathinacīvaraṃ “Tissassa” bhikkhuno kathinaṃ attharituṃ. Khamati saṃghassa, tasmā tuṇhī. Evametaṃ dhārayami.

(Kathinatthāra kammavācā niṭṭhitā).

Ý nghĩa:

Kính bạch chư Đại đức Tăng, kính xin chư Tăng nghe rõ lời tuyên ngôn của con. Y kathina của chư Tăng đã được phát sinh, nếu việc hành Tăng sự hợp thời đối với chư Tăng, xin chư Tăng dâng y kathina này đến Tỳ khưu “Tissa”, để làm lễ thọ y kathina. Đó là lời tuyên ngôn. Kính bạch quý Ngài đượcrõ.

Kính bạch chư Đại đức Tăng, kính xin chư Tăng nghe lời thành sự ngôn của con. Y kathina của chư Tăng đã phát sinh, chư Tăng dâng y kathina này đến Tỳ khưu “Tissa”, để làm lễ thọ y kathina.

Lễ dâng y kathina của chư Tăng đến cho Tỳ khưu “Tissa” để làm lễ thọ y kathina, vị Tỳ khưu nào hài lòng với việc này, xin hãy ngồi im lặng, vị nào không hài lòng, xin phát biểu lên giữa chư Tăng.

Chư Tăng đã dâng y kathina này đến Tỳ khưu, “Tissa” để làm lễ thọ y kathina, chư Tăng đều hài lòng chấp nhận, vì vậy, nên ngồi im lặng. Con xin ghi nhận trạng thái hài lòng bằng cách im lặng ấy.

(Hành tăng sự thọ y kathina xong).

Sau khi tụng xong Ñattidutiyakammavācā, vị Tỳ khưu luật sư thay mặt chư Tăng dâng tấm y kathina đến vị Đại đức Tissa.

Nhận tấm y kathina xong, vị Đại đức Tissa sẽ làm lễ thọ y kathina của chư Tăng.

Nghi Thức Làm Lễ Thọ Y Kathina

Nếu có Tam y: tấm y saṃghāṭi, tấm y uttarāsaṅga, tấm y antaravāsaka, thì vị Tỳ khưu chỉ chọn 1 tấm y trong 3 tấm y ấy mà thôi, để làm lễ thọ y kathina.

1- Nếu chọn tấm y saṃghāṭi (tấm y 2 lớp)để làm lễ thọ y kathina, thì nghi thức làm lễ thọ y kathina theo tuần tự như sau:

1. 1- Làm dấu tấm y saṃghāṭi: làm dấu : Kappabinduṃ karomi,làm dấu vòng tròn “O” bằng con mắt con công bằng mực màu đen, hoặc màu xanh đậm, hoặc màu xám đậm ở bên góc chéo tấm y saṃghāṭi.

1. 2- Xả tấm y saṃghāṭi cũ của mình.

“Imaṃ saṃghāṭiṃpaccuddharāmi”.
(Tôi xin xả tấm y saṃghāṭi
cũ này).

1. 3- Nguyện tấm y saṃghāṭi mới của chư Tăng.

“Imaṃ saṃghāṭiṃ adhiṭṭhāmi”.
(Tôi xin nguyện tấm y saṃghāṭi mới này).

1. 4- Làm lễ thọ y kathinacủa chư Tăng với tấm y saṃghāṭi.

“Imāya saṃghāṭiyā kathinaṃ attharāmi”.
(Tôi xin làm lễ thọ y kathina với tấm y saṃghāṭi này)

(Lễ thọ y kathina bằng tấm y saṃghāṭi xong).

2- Nếu chọn tấm y uttarāsaṅga (y vai trái) để làm lễ thọ y kathina, thì nghi thức làm lễ thọ y kathina theo tuần tự như sau:

2. 1- Làm dấu tấm y uttarāsaṅga: làm dấu: kappabinduṃ karomi,làm dấu vòng tròn “O” bằng con mắt con công bằng mực màu đen, hoặc màu xanh đậm, hoặc màu xám đậm ở bên góc chéo tấm y uttarāsaṅga.

2. 2- Xả tấm y uttarāsaṅga cũ của mình.

“Imaṃ uttarāsaṅgaṃ paccuddharāmi”.
(Tôi xin xả tấm y
uttarāsaṅga cũ này).

2. 3- Nguyện tấm y uttarāsaṅgamới của chư Tăng.

“Imaṃ uttarāsaṅgaṃ adhiṭṭhāmi”.
(Tôi xin nguyện tấm y uttarāsaṅga mới này).

2. 4- Làm lễ thọ y kathinacủa chư Tăng với tấm y uttarāsaṅga.

“Iminā uttarāsaṅgena kathinaṃ attharāmi”.
(Tôi xin làm lễ thọ y kathina vớitấm yuttarāsaṅga này).

(Lễ thọ y kathina với tấm y uttarāsaṅga xong)

3- Nếu chọn tấm y antaravāsaka (y nội) để làm lễ thọ y kathina, thì nghi thức làm lễ thọ y kathina theo tuần tự như sau:

3. 1- Làm dấu tấm y antaravāsaka: làm dấu: Kappabinduṃ karomi,làm dấu vòng tròn “O” bằng con mắt con công bằng mực màu đen, hoặc màu xanh đậm, hoặc màu xám đậm ở bên góc chéo tấm y antaravāsaka.

3. 2- Xả tấm y antaravāsakacũ của mình.

“Imaṃ antaravāsakaṃ paccuddharāmi”.
(Tôi xin xả tấm y
antaravāsaka cũ này).

3. 3- Nguyện tấm y antaravāsakamới của chư Tăng.

“Imaṃ antaravāsakaṃ adhiṭṭhāmi”.
(Tôi xin nguyện tấm y antaravāsaka mới này).

3. 4- Làm lễ thọ y kathinacủa chư Tăng với tấm y antaravāsaka.

“Iminā antaravāsakena kathinaṃ attharāmi”.
(Tôi xin làm lễ thọ y kathina
với tấm yantaravāsakanày).

(Lễ thọ y kathina với tấm antaravāsaka xong)

Nghi Lễ Anumodanā (hoan hỷ)

Sau khi đã thọ y kathina của chư Tăng xong, vị Đại đức Tissa mặc y chừa bên vai phải, ngồi chồm hổm ở giữa chư Tỳ khưu Tăng, chắp tay thỉnh mời chư Tỳ khưu Tăng đồng thanh nói lên lời hoan hỷ lễ thọ y kathina của chư Tăng rằng:

Atthataṃ Āvuso (Bhante) Saṃghassa kathinaṃ dhammiko kathinatthāro anumodatha.

Thưa quý pháp hữu, lễ thọ y kathina của chư Tăng đã xong, lễ thọ y kathina hợp pháp rồi, xin quý vị đồng thanh nói lên lời hoan hỷ.

Thành phần chư Tỳ khưu đồng hoan hỷ

Theo Chú giải Luật tạng, bộ Mahāvagga dạy rằng:

Những Tỳ khưu có quyền nói lời hoan hỷ lễ thọ y kathina của chư Tăngvà được hưởng đặc ân 5 quả báu của kathina như sau:

- Tỳ khưu an cư suốt 3 tháng hạ trước và làm lễ pavāraṇā.

- Sadi an cư nhập hạ suốt 3 tháng hạ trước đủ 20 tuổi, được làm lễ thọ Tỳ khưu trong khi nhập hạ, vị tân Tỳ khưu được làm lễ pavāraṇā cùng với chư Tăng, được kể một hạ thứ nhất, có quyền nói lời hoan hỷ lễ thọ y kathina cùng với chư Tỳ khưu Tăng và được hưởng đặc ân 5 quả báu của kathina.

Tất cả chư Tỳ khưu đồng thanh nói lên lời hoan hỷ như sau:

- Atthataṃ Bhante (Āvuso) Saṃghassa kathinaṃ, dhammiko kathinatthāro anumodāma.

- Kính bạch Đại đức, lễ thọ y kathina của chư Tăng đã xong, lễ thọ y kathina hợp pháp rồi, chúng con xin đồng thanh nói lên lời hoan hỷ.

(Hoàn mãn xong nghi thức thọ y kathina của chư Tăng)

Thành phần Tỳ khưu không đượchoan hỷ

- Tỳ khưu an cư 3 tháng hạ trước, kể từ ngày 16 tháng 6, nhưng bị đứt hạ.

- Tỳ khưu an cư 3 tháng hạ sau, kể từ ngày 16 tháng 7 đến 16 tháng 10.

- Tỳ khưu an cư suốt 3 tháng hạ trước, ở chùa khác đến tham dự lễ thọ y kathina.

- Tỳ khưu không nhập hạ.

Tất cả những Tỳ khưu trên không có quyền nói lên lời hoan hỷ lễ thọ y kathina của chư Tăng,và cũng không được hưởng đặc ân 5 quả báu của kathina.

Tất cả Sadi an cư suốt 3 tháng hạ với chư Tỳ khưu, không có quyền hành Tăng sự pavāraṇā, không làm lễ thọ y kathina của chư Tăng, cũng không hành lễ nói lên lời hoan hỷ lễ thọ y kathina của chư Tăng, nhưng tất cả vị Sadi được phép hưởng phần quả báu phát sinh trong lễ thọ y kathina của chư Tăng.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
17/02/2021(Xem: 5103)
Nội dung tác phẩm dựa trên một bức tranh nổi tiếng có tên là “Thanh minh thượng hà đồ” (nghĩa là “tranh vẽ cảnh bên sông vào tiết Thanh minh”) của nghệ sĩ Trương Trạch Đoan vào thời nhà Tống cách đây hơn 1000 năm. Thiên tài Albert Einstein đã từng nói: “Nghệ thuật thật sự được định hình bởi sự thôi thúc không thể cưỡng lại của người nghệ sĩ sáng tạo”. Và một nghệ sĩ điêu khắc người Trung Quốc – Trịnh Xuân Huy đã chứng minh điều đó qua kiệt tác nghệ thuật của ông trên một thân cây dài hơn 12 mét. Chắc chắn bạn sẽ phải ngạc nhiên về một người có thể sở hữu tài năng tinh xảo đến như vậy!
17/02/2021(Xem: 5542)
Một quán chiếu về những ánh lung linh trên bề mặt một hồ nước gợn sóng lăn tăn bởi làn gió nhẹ. Một con sông khổng lồ của si mê tin tưởng sai lầm tâm-thân là tồn tại cố hữu tuôn chảy vào hồ nước của việc hiểu sai cái "tôi" như tồn tại cố hữu. Hồ nước bị xáo động bởi những làn gió của tư tưởng phiền não chướng ngại ẩn tàng và của những hành vi thiện và bất thiện. Sự quán chiếu ánh trăng lung linh biểu tượng cho cả trình độ thô của vô thường, qua sự chết, và trình độ vi tế của vô thường, qua sự tàn hoại từng thời khắc thống trị chúng sanh. Ánh lung linh của những làn sóng minh họa tính vô thường mà chúng sanh là đối tượng, và quý vị thấy chúng sinh trong cách này. Bằng sự ẩn dụ này, quý vị có thể phát triển tuệ giác vào trong vấn đề chúng sinh bị kéo vào trong khổ đau một cách không cần thiết như thế nào bằng việc điều hướng với tính bản nhiên của chính họ; tuệ giác này, lần lượt, kích hoạt từ ái và bi mẫn.
16/02/2021(Xem: 4399)
Nói về pháp khí, nhạc khí của Phật giáo là nói đến chuông, trống và mõ. Trong ba pháp cụ đó. Tiếng chuông chùa đã gợi nguồn cảm hứng không ít cho những văn, thi sĩ. Hiện nay rất ít tài liệu nói về nguồn gốc của chuông, trống và mõ. Sự kiện trên khiến các học giả nghiên cứu về chuông, trống, mõ gặp trở ngại không nhỏ. Tuy thế dựa vào bài Lịch sử và ý nghĩa của chuông trống Bát nhã do thầy Thích Giác Duyên viết đã đăng trong Thư Viện Hoa Sen, khiến chúng ta biết được người Trung Hoa đã dùng chuông vào đời nhà Chu ( thế kỷ 11 Trước CN – 256 Trước CN ). Riêng việc chuông được đưa vào các chùa chiền ở Việt Nam từ thời nào người viết không biết có tài liệu nào đề cập đến không?
14/02/2021(Xem: 4949)
Pháp Hoa kinh là vua của các kinh vì ở vào thời kỳ thứ 5 trong lịch sử đạo Phật. Lúc bấy giờ là cuối đời thọ mạng của đức Phật nên kinh giảng của người mang toàn bộ tính chất của đạo Phật do người thuyết pháp. Có hai cốt lỏi của kinh Pháp Hoa là Phật tánh và Tri kiến Phật. Phật tánh đã được tóm lược trong bài Nhận biết Phật tánh cùng tác giả. Tri là biết, kiến là thấy, biết thấy Phật là gì? Biết là tuệ giác người dạy cho chúng ta và thấy là thấy đại từ bi của Phật. Đó là trí tuệ và từ bi là đôi cánh chim đại bàng cất cao bay lên trong tu tập. Chúng ta nghiên cứu trí tuệ của toàn bộ đạo Phật một cách tổng luận để tư duy, về phần từ bi chúng ta đã hiểu qua bài Tôi Học kinh Pháp Hoa đồng tác giả. Trí tuệ đạo Phật có gồm hai phần triết lý đạo Phật và ứng dụng. Tri kiến Phật là nắm hết các điểm chính của đạo Phật theo lịch sử của thời gian. Chúng ta hãy đi sâu về tuệ giác.
14/02/2021(Xem: 4528)
Ta hãy tự thoát ra khỏi thân mình hiện tại mà trở về lúc ta mới được sanh ra. Trong phút giây đặc biệt đó ta là gì? Ta vừa được chào đời, được vỗ mông để bật tiếng khóc là phổi ta hoạt động, mọi chất nhớt trong miệng được lấy ra và không khí vào buồng phổi: ta chào đời. Thân ta lúc đó là do 5 uẩn kết tạo từ hư không, 5 uẩn do duyên mà hội tụ. Cơ cấu của thân thể ta là 7 đại đất nước gió lửa không kiến thức. Cơ thể ta mở ra 6 cổng (căn) để nhập vào từ ngoài là 6 trần để rồi tạo ra 6 thức.
14/02/2021(Xem: 5240)
Nhân đọc bài về tuổi già của Đỗ Hồng Ngọc Bác sĩ y khoa, tôi mỉm cười. Mình cũng thuộc tuổi già rồi đấy!! Các bạn mình cũng dùng chữ ACCC= ăn chơi chờ chết vì vượt qua ngưỡng tuổi 70 rồi. Vậy theo BS Ngọc là làm như vậy cũng thực tế đó nhưng có thật là hạnh phúc tuổi già không? Bạn có đủ hết, con cái thì hết lo cho chúng được nữa rồi, chúng tự lo lấy chúng. Tiền bạc thì hết lo được nữa rồi có bấy nhiêu thì hưởng bấy nhiêu.
14/02/2021(Xem: 4737)
Phật giảng thuyết có ba phương cách: a. Giảng trực tiếp như các kinh đạo Phật Nguyên thủy, b. Giảng bằng phủ định, từ chối là không và phủ định hai lần là xác định tuyệt đối. c. Giảng bằng biểu tượng, đưa câu chuyện cánh hoa sen hay viên ngọc trong túi người ăn mày để biểu tượng hoá ý nghĩa sâu xa của kinh. Phương cách thứ ba này là kinh Pháp Hoa. Có nhiều biểu tượng nhưng nổi bật nhất là cánh hoa sen là biểu tượng kinh Pháp Hoa.
10/02/2021(Xem: 9469)
Long Khánh là một thị xã ven Đô, Phật giáo tuy không sung túc như các Tỉnh miền Trung Nam bộ, nhưng sớm có những ngôi chùa khang trang trước 1975, do một số chư Tăng miền Trung khai sơn lập địa. Hiện nay Long Khánh có những ngôi chùa nổi tiếng như chùa Hiển Mật hay còn gọi là chùa Ruộng Lớn tọa lạc tại Thị xã Long Khánh, chùa Huyền Trang, tọa lạc tại ấp Bàu Cối, xã Bảo Quang,.…Nhưng điều đáng nói là một ngôi Tam Bảo hình thành trong vòng 5 năm,khá bề thế. Qua tổng thể kiến trúc và xây dựng, không ai ngờ hoàn hảo trong thời gian cực ngắn, đó là Tịnh xá Ngọc Xuân, do sư Giác Đăng,đệ tử HT Giác Hà, hệ phái Khất sĩ, thuộc giáo đoàn 5 của Đức thầy Lý.
08/02/2021(Xem: 4868)
Hình ảnh con trâu tượng trưng cho tâm ý của chúng sinh. Mỗi người ai cũng đều có một con “trâu tâm" của riêng mình. Và cứ như thế pháp chăn trâu được nhiều người sử dụng, vừa tự mình chăn vừa dạy kẻ khác chăn. Vào cuối thế kỷ mười ba, thời nhà Trần, trong THIỀN MÔN VIÊT NAM xuất hiện một nhân vật kiệt xuất. Đó là Tuệ Trung Thượng Sĩ tên thật là Trần Tung, ông là một thiền sư đắc đạo. Ông là người hướng dẫn vua Trần Nhân Tông vào cửa Thiền và có nhiều ảnh hưởng đến tư tưởng của vị vua sáng lập Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử này.
08/02/2021(Xem: 4112)
Sau khi đạt được Giác ngộ, Đức Phật nêu lên Bốn Sự Thật và sự thật thứ nhất là "Khổ đau". Khổ đau ẩn chứa trong thân xác, bàng bạc trong tâm thức của mỗi cá thể con người và bùng ra cùng khắp trong thế giới: bịnh tật, hận thù, ích kỷ, lường gạt, đại dịch, bom đạn, chiến tranh... Sự thật đó, khổ đau mang tính cách hiện sinh đó, thuộc bản chất của sự sống, gắn liền với sự vận hành của thế giới. Sự thật về khổ đau không phải là một "phán lệnh" hay một cái "đế", cũng không mang tính cách "kỳ diệu" gì cả, mà chỉ là một sự thật trần trụi, phản ảnh một khía cạnh vận hành của hiện thực.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]