Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

7. Ý nghĩa của việc tụng kinh

18/09/201215:28(Xem: 10466)
7. Ý nghĩa của việc tụng kinh

Ý NGHĨA CHÂN THẬT VỀ PHẬT GIÁO

Thích Hạnh Phú

V. Ý NGHĨA CỦA NHỮNG VẬT ĐƯỢC THỜ CÚNG

V.7. Ý nghĩa của việc tụng kinh

Trong Tịnh Độ Hoặc Vấn của Thiền sư Thiên Như và Kinh Vô Lượng Thọ của HT. Tịnh Không ghi: vào thời đức Phật còn tại thế thì việc tụng kinh chưa hình thành. Ngày ngày đức Thế Tôn nhị thời (bằng 8 tiếng đồng hồ ngày nay) thuyết pháp, với 49 năm hơn 300 hội (thuyết pháp). Hàng đệ tử sau khi nghe xong, thực hành quán chiếu tư duy tu tập thiền định chứng quả.

Khi Phật giáo từ Ấn Độ truyền sang Trung Quốc từ năm 67 Tây lịch (niên hiệu Vĩnh Bình năm thứ 10 - đời vua Minh Đế nhà Hậu Hán) mãi cho đến vào thời nhà Đường (618 – 907), thiền sư Bách Trượng Hoài Hải (720 – 814) lập ra thanh qui thiền môn và soạn ra 2 thời công phu sáng – tối. Mục đích để người đời sau nương vào đó mà tu tập, thúc liễm thân tâm. Tụng kinh là một trong những phương pháp tu nhằm ôn lại lời Phật dạy, đồng thời để ba nghiệp được thanh tịnh an lạc. Khi phật tử ngồi tụng kinh, tư thế ngồi bất động để tụng kinh, thân thể chúng ta đang từng bước trở nên an tịnh, thuần khiết, nhờ đó chúng ta tránh được tất cả các hành vi xấu ác của thân như giết hại, trộm cướp, tà dâm. Ngoài ra, do miệng đọc tụng lời kinh, các lời nói mang tính chất sai sự thật, ác độc, thêm bớt và nói lời vô nghĩa không có cơ hội để phát triển. Khi đọc kinh thì miệng của chúng ta xướng lên những lời lẽ đạo đức, trí tuệ, nhờ đó chúng ta có cơ hội vun trồng các hạt giống thiện. Như vậy, trong hành động tụng kinh, chúng ta xa lìa được mười nghiệp ác, ba của ý, ba của thân và bốn của lời nói. Nói cách khác, trong khi tụng kinh chúng ta đã huấn luyện ba nghiệp của mình về con đường lương thiện và đạo đức. Kinh điển của Phật giống như một tấm bản đồ, là kim chỉ nam hướng dẫn chúng ta sống đời chân chánh, để gặt hái kết quả hạnh phúc ở đời này và đời sau. Đọc tấm bản đồ để biết được con đường, để đi đúng đường, để đến đúng đích. Đây là con đường mà ba đời chư Phật đã đi qua, diệt trừ tận gốc rễ của khổ đau, đạt được an lạc và giải thoát. Cũng để “minh Phật chi lý” hiểu rõ những lời dạy về chân lý vũ trụ nhân sinh, sanh, già, bệnh, chết, khổ, không, vô thường, vô ngã, v.v…và đem áp dụng vào cuộc sống nhằm lợi người lợi mình.

Tụng kinh không phải để cầu nguyện Phật và Bồ tát gia hộ cho mình, gia đình và thân quyến tai qua nạn khỏi, thăng quan tiến chức, làm ăn thịnh vượng, tuổi thọ tăng trưởng, sở nguyện tùy tâm, kiết tường như ý. Tụng kinh cũng không phải là sự mua bán hay trao đổi về sức khỏe, tài sản, giàu sang và phước báu. Tụng kinh không phải ngày ngày đọc cho Phật nghe - biết là hôm nay chúng ta có tụng kinh, trả bài cho Phật. Tụng kinh như thế còn có tội thêm. Mà theo HT. Tịnh Không thì ý nghĩa và giá trị của việc tụng kinh buổi sáng là phản tỉnh bản thân xem hôm nay đức Phật dạy chúng ta làm những gì, ứng xử giao tiếp đối đãi người – sự - vật như thế nào, khi chúng ta mang trên người 2 chữ “Phật tử”. Cũng giống như một học sinh ở nhà học bài, chuẩn bị bài vở trước khi đến trường học. Tụng kinh buổi tối là kiểm điểm bản thân xem hôm nay đức Phật dạy những điều gì nên làm chúng ta đã làm chưa, những điều gì Phật dạy không nên làm chúng ta có sai phạm không, nếu có thì mau mau phản tỉnh tự thân sám hối. Ngài nói: “kinh điển như một tấm kính”. Mỗi ngày chúng ta thường có thói quen soi mặt vào tấm kính để xem có vết bẩn trên khuôn mặt. Cũng vậy, chúng ta đọc kinh để nhằm soi rọi, hóa giải những vết bẩn trong tâm hồn. Để tìm lại con người thật của chính mình. Tìm lại “bản thiện”, “Phật tánh chân như” bất sanh bất diệt. Đó là ý nghĩa và giá trị của việc tụng kinh.

Cũng theo HT. Tịnh Không thì việc tụng kinh đám ma (chết) có từ năm 755 tức đời Vua Đường Minh Hoàng (Đường Huyền Tông). Đường Minh Hoàng say đắm Dương Quý Phi (một trong tứ đại mỹ nhân Trung Quốc), suốt ngày đêm cùng nàng yến tiệc đàn ca, bỏ cả việc triều chính. Nhà vua lại tin dùng An Lộc Sơn là một võ tướng người Đột Quyết, cho giữ phần chỉ huy nửa lực lượng quân sự của triều đình.

Bấy giờ, anh Dương Quý Phi là Dương Quốc Trung nắm giữ toàn quyền binh lực. Thấy An Lộc Sơn như cái gai trước mắt nên định mưu hại. Năm 755, An Lộc Sơn cử binh từ quận Ngư Dương đánh thẳng vào kinh đô Trường An, lấy lí do "trừ bỏ gian thần Dương Quốc Trung". Trong triều đình lúc bấy giờ phó nguyên soái Quách Tử Nghi đem binh dẹp tan được cuộc nổi loạn. Thấy quân lính và nhân dân chết nhiều, vua Đường Minh Hoàng thỉnh quý thầy soạn ra một nghi thức tụng kinh. Sau đó ra ngoài chiến trận lập đàn siêu độ cho các quân lính, lúc này nhằm năm Khai Nguyên. Trong dân gian thấy triều đình làm như thế liền bắt chước theo. Từ đó việc tụng kinh đám được hình thành.

Tuy việc tụng kinh đám tang không phải do đức Thế Tôn đích thân nói ra, nhưng do vì lòng từ bi nên chư tổ muốn dùng phương tiện thiện xảo “dĩ giả độ chơn” nghĩa là thông qua lời kinh tiếng kệ nhằm đánh thức chúng sanh còn đang mê muội quay về với Phật tánh chân như. Người viết xin dẫn một câu chuyện có thật, chuyện này xảy ra nơi quê của mình.

Có một gia đình nọ, vợ chồng đều là tri thức giáo viên. Họ chưa một lần đi chùa, tìm hiểu giáo lý đạo Phật. Một hôm, trong gia đình có người con trai chết. Qua lời chỉ bày hướng dẫn của làng xóm, gia đình đến chùa thỉnh quý thầy về nhà tụng kinh siêu độ cho con trai. Nhờ qua lời kinh tiếng kệ của quý thầy đã đánh thức tâm hồn họ và từ đó gia đình thường xuyên đến chùa làm công quả, tụng kinh, tìm hiểu giáo lý để tu tập. Do đó, người viết nghĩ rằng nếu gia đình này không có người con trai chết thì có lẽ phải đến một thời gian lâu sau, gia đình này mới có cơ hội đến chùa, tìm hiểu giáo lý đạo Phật.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
07/01/2021(Xem: 5595)
Một khuôn mặt trong một tấm gương xuất hiện là một khuôn mặt, nhưng thế nào đi nữa hình ảnh đấy không là một khuôn mặt thật sự; đấy là từ những quan điểm trống rỗng về sự hiện hữu của một khuôn mặt. Giống như thế, một nhà huyển thuật có thể gợi lên những ảo ảnh dường như là những thứ thật sự. như một người ở trong một cái thùng bị xiên bởi một cây gươm, nhưng tất cả hoàn toàn không được tạo ra thật sự như những thứ được thấy. Tương tự thế, các hiện tượng như thân thể hiện diện được tạo ra từ chính phía của đối tượng nhưng trống rỗng trong việc được thiết lập cách ấy và luôn luôn như thế.
04/01/2021(Xem: 5513)
Đức Đạt Lai Lạt Ma đưa ra nhận xét chính thức đầu tiên về việc nghỉ hưu, từ các trách nhiệm chính trị trong một buổi giảng dạy công khai tại Tsuglagkhang, Dharamshala, ngày 19 tháng 3 năm 2011. Năm 1963, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã ban hành một Hiến pháp Dân chủ (democratic constitution) hoàn toàn dựa trên Giới luật Phật giáo, và bản Hiến chương Nhân quyền của Liên Hợp Quốc để biên soạn, và chuẩn bị cho một mô hình đất nước Tây Tạng tự do ở tương lai:
04/01/2021(Xem: 6912)
Ngày Xuân ngày Tết, nếu ai tìm những giờ phút thanh thản yên tịnh bằng những bước nhẹ nhàng khoan thai vào vãng cảnh các chùa chiền tự viện, dâng hương bái Phật, nếu để ý sẽ thấy ở một vách tường nào đó treo bộ tranh mang tên gọi là “Thập mục ngưu đồ”. Không phải chốn già lam thiền viện nào cũng có trưng treo, vì đó không phải là điều bắt buộc thuộc thanh quy giới luật, nhiều khi chỉ được treo để trang trí, hay được trưng ra ở một nơi hằng ngày đi qua đi lại như để nhắc nhở, vậy nếu khi ta bắt gặp được tức là ta đang hữu duyên, hãy đừng bỏ dịp đứng trước bộ tranh mang những nét sơ sài ấy để ngắm từng bức mà chiêm nghiệm nghiền ngẫm.
04/01/2021(Xem: 4298)
Phật Vàng (Golden Buddha) có tên chính thức trong tiếng Thái là “Phra Phuttha Maha Suwana Patimakon”, nặng 5,5 tấn. Sau nhiều lần di chuyển, pho tượng hiện đang nằm trong đền thờ Wat Traimit, Bangkok, Thái Lan. Hiện tại, mặc dù các học giả vẫn chưa xác định chắc chắn nguồn gốc của pho tượng là bắt nguồn từ thời gian nào. Nhưng dựa theo cấu trúc của phần đầu bức tượng (hình quả trứng), thì có thể đoán rằng, nó ra đời vào dưới triều Sukhothai vào thế kỷ 13 – 14 – một trong những giai đoạn nổi tiếng nhất của nghệ thuật kiến trúc Phật giáo Thái Lan.
03/01/2021(Xem: 9120)
Một Số Danh Tăng Việt Nam Tuổi Sửu Thiền sư TRÌ BÁT (Kỷ Sửu 1049) Thiền sư TỊNH THIỀN (Tân Sửu 1121) Hoà thượng THÍCH ĐẠT THANH (Quý Sửu 1853) Hoà thượng THÍCH GIÁC NHIÊN (Đinh Sửu 1877) Thiền sư THÍCH CHƠN PHỔ - THUBTEN OSALL LAMA (Kỷ Sửu 1889) Hoà thượng THÍCH BỬU LAI (Tân Sửu 1901) Hoà thượng THÍCH THIÊN ÂN (Ất Sửu 1925) Hoà thượng THÍCH MINH THÀNH (Đinh Sửu 1937)
03/01/2021(Xem: 5457)
“Con trâu là đầu cơ nghiệp”. Với một nước nông nghiệp như nước ta, hình ảnh con trâu nặng nề lầm lũi, kềnh càng cục mịch luôn gắn bó với những cánh đồng thửa ruộng, thân thiết với bao người nông dân chân lấm tay bùn, và gần gũi với lũ trẻ mục đồng thường nghêu ngao bài hát quen thuộc “Ai bảo chăn trâu là khổ, chăn trâu sướng lắm chứ!”… Không chỉ như thế, trâu cũng đã từng gắn bó với cuộc đời một vài danh nhân lịch sử như Đinh Bộ Lĩnh, Đào Duy Từ… Đối với nền văn học nước nhà, con trâu còn có cái công rất lớn trong việc làm phong phú ngôn ngữ, nhất là trong ca dao- đồng dao-tục ngữ.
01/01/2021(Xem: 5082)
Từ lâu các kinh sách Phật Giáo Việt Nam bị ảnh hưởng bởi ngôn ngữ âm Hán Việt của Trung Quốc. Từ những được chư tôn thiền đức Tăng Ni chuyển qua quốc ngữ tiếng Việt, để Phật tử dễ đọc, nhất là những vị chưa có kiến thức về âm Hán Việt. thế kỷ 20 (năm 2000 trở đi) các kinh sách dần dần đã Người biên soạn xuất gia tại Chùa Liên Hoa, Bình Thạnh, với Tôn Sư Hải Triều Âm, các kinh sách trong Chùa tụng bằng tiếng Việt do Tôn sư chuyển ngữ. Từ năm 2005 trở đi, người biên soạn định cư và hoằng pháp tại Hoa Kỳ. Nhiều Chùa ở Hoa Kỳ vẫn còn tụng kinh bằng âm Hán Việt và nhiều nơi phải tụng bằng tiếng Anh cho người bản địa và thế hệ con cháu thứ hai sanh tại Mỹ có thể tụng hiểu được. Phật tử Việt tụng kinh bằng tiếng Việt mà vẫn chưa hiểu được ý nghĩa ẩn sâu trong lời kinh và càng bối rối hơn khi tụng kinh bằng bằng âm Hán Việt. Đó là lý do thúc đẩy, chùa Hương Sen biên soạn một cuốn “NGHI LỄ HÀNG NGÀY” bằng tiếng Việt và tổng hợp gần 50 bài kinh:
01/01/2021(Xem: 5676)
Trong kho tàng văn học của Việt Nam và Phật Giáo, Trần Thái Tông (1225 - 1258) đã có những đóng góp vô cùng to lớn và giá trị, những sáng tác của Ngài, bất hủ qua dòng thời gian, tỏa sáng lồng lộng trên bầu trời Dân Tộc và Đạo Pháp. Trần Thái Tông được kể như một vị Thiền sư cư sĩ vĩ đại, nhà thiền học uyên thâm, thành tựu sự nghiệp giác ngộ. Một vị vua anh minh dũng lược, chiến thắng quân Nguyên Mông giữ gìn bờ cõi, đem lại cường thịnh ấm no cho dân cho nước, đã để lại tấm lòng cao quý thương yêu đời đạo, lưu lại di sản trí tuệ siêu thoát cho hậu thế noi theo.
29/12/2020(Xem: 6161)
Tịch tĩnh bất động hay định lực có thể đè nén những cảm xúc chướng ngại ẩn tàng, nhưng nó không thể loại trừ hoàn toàn chúng. Tuệ giác nội quán là cần thiết bởi vì như được giải thích trước đây, nó có thể loại trừ hoàn toàn những cảm xúc phiền phức và những rối rắm hậu quả của chúng. Thiền ổn định (chỉ) và thiền phân tích (quán) bây giờ phải làm việc với nhau. Khi chúng thể hiện chức năng cách này, chúng có thể nhổ gốc những cảm xúc phiền phức và loại trừ những giới hạn của thông tuệ vì thế chúng ta có thể hoàn thành mục tiêu tối hậu của việc giúp đở những kẻ khác một cách hiệu quả hơn.
29/12/2020(Xem: 5172)
Thơ thiền Nhật bản là cả một thế giới thi ca độc đáo, tiêu biểu cho tư tưởng và chủ trương tu tập của thiền học Zen, nhất là qua một thể thơ cực ngắn gọi là haiku. Điểm đáng lưu ý và cần nêu lên trước nhất là thơ thiền Nhật bản khác hẳn với thơ Đường của Trung quốc. Một số học giả, kể cả các học giả Tây phương, dường như đôi khi không nhận thấy được sự khác biệt này khi mang ra phân tích và tìm hiểu tinh thần Phật giáo chung cho cả hai thế giới thi ca trên đây.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]