Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

2. Danh hiệu thứ hai: Nam-mô A-di-đà Phật

18/09/201215:28(Xem: 10714)
2. Danh hiệu thứ hai: Nam-mô A-di-đà Phật

Ý NGHĨA CHÂN THẬT VỀ PHẬT GIÁO

Thích Hạnh Phú

IV. Ý NGHĨA CỦA CÁC DANH HIỆU PHẬT, BỒ-TÁT[2]

IV.2. Danh hiệu thứ hai: NAM-MÔ A-DI-ĐÀ PHẬT

Hiện nay, pháp môn niệm Phật ở nước ta tương đối phát triển, các chùa đều có tổ chức khóa tu niệm Phật dành cho Phật tử tại gia. Đa số Phật tử đều hiểu biết nhiều về hình tượng của A-di-đà Phật, nên người viết chỉ nêu thêm vài ý nghĩa để làm sáng tỏ hơn hình tượng của Ngài.

Adịch là Vô.

Di-đàdịch là Lượng.

Phậtdịch là Giác hoặc Trí.

Từ trên mặt chữ, ta thấy danh hiệu A-di-đà Phật dịch thành Vô Lượng Giác hoặc Vô Lượng Trí. “Vô Lượng” nghĩa là vốn chẳng thể nói. Không có gì chẳng phải là vô lượng: vô lượng công đức, vô lượng tài nghệ, vô lượng tướng hảo v.v…

Trong kinh A-di-đà, Đại sư Cưu-ma La-thập dịch danh hiệu A-di-đà Phật thành Vô Lượng Quang, Vô Lượng Thọ.

Vô lượng Quang: biểu thị cho không gian

Vô lượng Thọ: biểu thị cho thời gian

Không gian và thời gian biểu thị cho toàn thể hư không pháp giới, cũng là đức hiệu A-di-đà Phật.

  • Ý nghĩa hình tượng A-di-đà Phật.

Chúng ta thấy hình tượng của Ngài thường là đứng. Tay trái cầm đài sen có ý nghĩa như sau: Chúng sanh nào trong mười phương pháp giới phát tâm niệm danh hiệu A-di-đà Phật và phát nguyện cầu vãng sanh về nước Ngài, thì trên cõi Tây phương Cực Lạc liền mọc lên một đóa hoa sen (có ghi tên họ của mình). Trước giờ phút lâm chung nếu người bệnh niệm danh hiệu của Ngài từ 1 đến 10 tiếng, thì Ngài cùng chư vị Thánh chúng từ cõi Tây phương Cực Lạc cầm hoa sen này hiện thân tiếp dẫn người đó vãng sanh Cực Lạc.

Tay phải của Ngài duỗi thẳng xuống nhằm ý dìu dắt, nâng đỡ, khuyên tấn những chúng sanh còn đang mãi trầm luân trong biển sanh tử.

  • Hạnh nguyện của đức Phật A-di-đà.

Kinh Bi Hoa, đức Phật nói rằng: “Về kiếp lâu xa có vị vua Vô Tránh Niệm đối trước đức Phật Bảo Tạng Vương Như Lai phát 48 lời nguyện. Mục đích là tạo nên một cõi nước thanh tịnh, tốt đẹp, để tiếp dẫn tất cả chúng sanh khổ nạn có tâm mong cầu vãng sanh nhằm về đó tu tập, mau chóng thành Phật”.

Kinh Vô Lượng Thọ, Phật dạy: “Tiền thân đức Phật A-di-đà là vị vua tên Nhiêu Ích, nghe đức Thế Tự Tại Vương Như Lai thuyết kinh giảng đạo, sanh tâm hoan hỷ, nên phát tâm xuất gia hiệu là Tỳ-kheo Pháp Tạng. Vì muốn tạo nên một cõi nước trong sạch, thanh tịnh, tốt đẹp để tiếp dẫn tất cả chúng sanh nào trong mười phương phát tâm niệm Phật nguyện sanh về nước Ngài, nên tỳ-kheo Pháp Tạng đối trước đức Phật Thế Tự Tại Vương Như Lai phát 48 lời nguyện. Nội dung mỗi một nguyện đều hàm ý vì lợi ích chúng sanh, cứu độ chúng sanh”.

Hạnh nguyện của đức Phật A-di-đà, được pháp sư Tịnh Không gộp thu thành 4 chữ: “Tâm – Nguyện – Giải – Hạnh”.

- Tâm đức Phật A-di-đà là gì?

Phật dạy: “Chư Phật nhìn chúng sanh như những vị Phật. Còn chúng sanh nhìn chư Phật như những chúng sanh”. Chính vì thế, mà tâm của chư Phật lúc nào cũng chân thành, thanh tịnh, bình đẳng, từ bi, cung kính đối với tất cả chúng sanh.

A_DI_DA_PHAT

Nam mô A Di Đà Phật - ảnh minh họa

Vì “Phật Phật đạo đồng” nghĩa là tâm của đức Phật A-di-đà giống tâm đức Phật Thích-ca. Do đó chúng ta chỉ cần tìm hiểu tâm của đức Phật Thích-ca trong sinh hoạt đời sống hằng ngày khi còn tại thế, trong việc giáo hóa, trong cách ứng xử giao tiếp đối với chúng sanh. Tâm của Ngài luôn chân thành, bình đẳng, không phân biệt, từ bi, cung kính tất cả mọi người, trên từ các bậc vua chúa, các quan cho đến những người có thân phận thấp hèn nhất trong xã hội Ấn Độ lúc bấy giờ (tiêu biểu: Phật độ người gánh phân tên Ni-đề, Phật độ kỹ nữ Ambapàlì v.v…). Vì Ngài biết rằng do nghiệp lực ở quá khứ chi phối, nên mọi người đều mang một thân phận khác nhau, có người giàu sang, có người nghèo hèn, có người thông minh lanh lợi, có người ngu si đần độn, có người đẹp, có người xấu v.v… nhưng tất cả họ đều có chung một Phật tánhvà đều có thể thành Phật như những vị Phật ở quá khứ.

Công hạnh của đức Từ Phụ sáng ngời như thế, chúng ta là những Phật tử đang và sẽ bước trên con đường khi xưa mà Ngài đã đi. Vậy trong cuộc sống hằng ngày khi đối nhân xử thế, tâm của chúng ta có chân thành, thanh tịnh, không phân biệt, từ bi, cung kính với người, với vật không? Hay là tâm luôn nhìn thấy lỗi lầm người này, nói xấu người kia, tâm luôn sân si nóng giận với mọi người xung quanh. Trong Trung Phong Tam Thời Hệ Niệm Pháp Sự Toàn Tập, pháp sư Tịnh Không giảng rằng: “Ai còn có đối lập, ai vẫn còn cảm thấy không thoải mái khi nhìn người khác, thấy lỗi người này, nói xấu người kia, nóng giận với mọi người xung quanh thì phải tự hiểu người đó không thể vãng sanh. Nhất định phải học sao cho thấy ai tâm của mình cũng hoan hỷ, mình quyết định chẳng hủy báng họ, nói xấu họ. Ai lăng nhục mình, hủy báng mình, người ta hãm hại mình, mình cũng hoan hỷ, vui vẻ. Vì họ đã thay mình tiêu nghiệp chướng, quyết định chẳng có oán hận mảy may, quyết định chẳng có ý niệm báo thù, thì ta mới có thể vãng sanh về Tây phương Cực Lạc. Tu hành, trọng yếu nhất là phải sửa đổi những hành vi, lời nói, việc làm sai lầm của mình, làm sao cho đúng với hành vi, lời nói, công hạnh của chư Phật. Đó là tâm của Phật”.

Ngày nay Phật tử phát tâm niệm danh hiệu Ngài, phát nguyện cầu vãng sanh về nước Ngài thì ngoài vấn đề niệm Phật, trong cuộc sống chúng ta còn phải biết sửa đổi tâm tánh, tính tình. Như thế thì “nhớ Phật, niệm Phật, hiện tiền tương lai nhất định thấy Phật”.

- Nguyện của A-di-đà Phật là gì?

Mười phương ba đời hết thảy chư Phật trong lúc tu hành hạnh Bồ-tát đạo, hoặc khi đã thành Phật, đều phát những đại nguyện khác nhau nhằm mục đích cứu độ tất cả chúng sanh trong mười phương. Nhưng quy nạp lại không ngoài bốn nguyện lớn, đức Thế Tôn gọi là Tứ hoằng thệ nguyện (Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ - Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn – Pháp môn vô lượng thệ nguyện học – Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành). Nhưng trong tất cả chư Phật, nhất định có một vị Phật được tất cả chư Phật tán thán, khen ngợi. Ví như ở thế gian mọi người đều cùng một học vị Tiến sĩ nhưng trong đó tất có một vị được nhiều người tôn trọng, kính phục. Phật pháp cũng vậy, trong tất cả chư Phật thì đức Phật A-di-đà được mười phương chư Phật tán thán. Cổ đức nói: “Mười phương ba đời (quá khứ - hiện tại – vị lai) Phật, A-di-đà là bậc nhất”. Chính vì thế mà Thiện Đạo đại sư nói: “Như Lai sở dĩ hưng xuất thế, duy thuyết Di-đà bổn nguyện hải” (Sở dĩ Như Lai xuất hiện trong thế gian chỉ nhằm mục đích để nói biển bổn nguyện Di-đà). Bởi vì tâm tâm, nguyện nguyện của A-di-đà Phật một lòng luôn hướng về những chúng sanh đang khổ nạn, như mẹ hiền nhớ con thơ. Vì muốn cho chúng sanh có một hoàn cảnh, môi trường thật lý tưởng, tốt đẹp, hoàn mỹ, thanh tịnh, để chúng sanh vãng sanh về đó tu tập mau thành Phật. Ngài đã thăm viếng, học hỏi hai trăm mười ức cõi Phật, học những điều hay, chọn những thứ tốt để về xây dựng nên một thế giới Cực Lạc bậc nhất và đối trước Thế Tự Tại Vương Như Lai phát 48 lời thệ nguyện. Trong mỗi một nguyện đều hàm nhiếp vì hết thảy chúng sanh khổ nạn. Có thể khẳng định rằng điều kiện vãng sanh về nước Ngài so với chư Phật trong mười phương là dễ dàng nhất, thành tựu quả vị lại cao nhất. Chính vì thế mà được chư Phật tán thán, khen ngợi.

Xã hội ngày nay, còn rất nhiều người khổ nạn, nghèo khó, bệnh tật, v.v… Là những người học Phật, một lòng niệm Phật cầu vãng sanh, tu hạnh giải thoát, thì trong đời sống hằng ngày khi gặp những người khổ nạn, nghèo khó, bệnh tật, v.v… chúng ta phải khởi tâm từ, tâm yêu thương, tâm chia sẻ, tâm giúp đỡ đối với những chúng sanh khổ nạn này. Thay mặt A-di-đà Phật hoàn thành một phần nhỏ những hạnh nguyện của Ngài đối với tất cả chúng sanh. Làm được như thế thì khi chúng ta phát tâm niệm danh hiệu Ngài mới tương ứng, cảm ứng đạo giao: “Nhất niệm tương ứng nhất niệm Phật. Niệm niệm tương ứng niệm niệm Phật”.

- Giải của A-di-đà Phật là gì?

Giải nghĩa là trí tuệ. Tức là liễu giải chân tướng của nhân sanh và vũ trụ, liễu giải hết thảy người, sự, vật, giống như trí huệ của Phật, hiểu rõ mọi thứ, thấu hiểu mọi thứ, đối với mọi thứ chẳng mê hoặc điên đảo, xử sự, đãi người, tiếp vật chẳng sai lầm. Có như vậy thì mới có thể thực sự diễn nói cho người khác. Danh hiệu A-di-đà Phật dịch thành Vô Lượng Quang là trí tuệ vô lượng, trí tuệ rốt ráo viên mãn. Không điều gì mà Phật chẳng biết, từ quá khứ vô lượng đến vị lai tột cùng Ngài đều thấy biết rõ ràng. Nhờ có trí tuệ vô lượng, viên mãn nên Ngài giáo hóa chúng sanh một cách dễ dàng và thuận tiện.

Phàm phu chúng ta thường cho suy nghĩ, cách nhìn, cách làm của mình là đúng, là tiêu chuẩn. Nhưng trong kinh Phật nói, đợi đến khi nào chúng ta chứng đắc quả A-la-hán rồi, tức là khi đoạn được Kiến-Tư phiền não rồi, thì mới có thể tin vào ý nghĩ, cách nghĩ, cách nhìn của chính mình. Tông chỉ của đạo Phật là phá mê khai ngộ, chuyển phàm thành Thánh. Mê là do vô minh che lấp, không phân biệt đâu là chánh-tà, đúng-sai, phải-trái. Chính vì thế đức Phật dạy, trong cuộc sống chúng ta cần phải có “trí tuệ làm sự nghiệp”, lấy “chánh kiến” cái thấy đúng đắn, hợp với chân lý trong Bát chánh đạo làm phương châm sống để tiến tu trên bước đường học Phật giải thoát.

- Hành của A-di-đà Phật là gì?

Hành nghĩa là đức hạnh. Đức là đạo đức. Hạnh là lời nói, cử chỉ hành vi. Lời nói cử chỉ hành vi của người có đức hạnh. Trong mười pháp giới (địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh, người, A-tu-la, Trời, Thanh văn, Duyên giác, Bồ-tát và Phật), thì người có phẩm chất đức hạnh bậc nhất là Phật, không ai vượt qua. Chính vì thế mà trong kinh Vô Lượng Thọ, đức Phật Thích-ca tán thán A-di-đà Phật. Nghĩa là Phật Thích-ca thay mặt mười phương ba đời hết thảy chư Phật Như Lai tán thán A-di-đà Phật là “quang trung cực tôn, Phật trung chi vương” (tôn quý nhất trong các quang minh, là vua của các Phật), tán thán đến cùng cực. Lại ví đức hạnh của A-di-đà Phật sáng như mặt trăng ngày rằm, soi chiếu, xoa dịu đến tất cả chúng sanh đang trầm luân trong biển sanh tử.

Hiện nay, người niệm Phật rất nhiều, ai cũng biết điều kiện để vãng sanh về Tây phương Cực Lạc là phải có đầy đủ Tín – Nguyện – Hạnh. Nhưng Hòa thượng Tịnh Không nói rằng, trong một vạn người niệm Phật thì chỉ có hai, ba người vãng sanh. Đó là bởi do nguyên nhân gì? Trong Chú giải Quán Vô Lượng Thọ kinh, ngài Quán Đảnh đại sư nói rằng: “Người niệm danh hiệu A-di-đà Phật có 100 thứ quả báo, trong đó cái quả báo đầu tiên là đọa địa ngục”. Ngài giải thích, bởi vì người niệm Phật khởi tâm động niệm lời nói hành vi hoàn toàn trái với Phật pháp. Nghĩa là họ nói xấu người này, nhìn lỗi người kia, hay sân si, nóng giận với người xung quanh. Vô tình hay cố ý, họ đã phá hủy hình ảnh tốt đẹp của Phật giáo, của người tu hành, người niệm Phật. Người chưa học Phật nhìn thấy như thế không còn dám học Phật nữa, không còn dám đi chùa nữa. Người học Phật, niệm Phật giống như con dao hai lưỡi, nghĩa là trong cuộc sống hằng ngày chúng ta dùng “Tâm – Nguyện – Giải – Hành” của A-di-đà Phật làm “Tâm – Nguyện – Giải – Hành” của chính mình, ta phải là tấm gương tốt nhất cho mọi người xung quanh học theo, noi theo. Gia đình ta là tấm gương tốt nhất cho mọi gia đình trong xã hội học theo. Được vậy, thì công đức của ta rất lớn, người khác nhìn thấy như thế là vô tình chúng ta đã độ họ, chuyển hóa họ. Họ tìm đến đạo Phật, học Phật, chủng tử Phật tánh từ đây là sinh chồi, nảy mầm, lên cây, kết trái, giải thoát sanh tử. Công đức từ đây mà sanh ra. Ngược lại, nếu như mọi người xung quanh nhìn thấy ta còn những đức tính không tốt, tham lam, nóng giận, nói xấu người này, nhìn lỗi người kia, v.v…, họ không dám học Phật, vì nghĩ rằng đạo Phật không có gì tốt, đi chùa không có gì hay. Chủng tử Phật tánh bị vùi lấp thêm ngày càng dày, càng sâu. Tội chúng ta từ đây mà hình thành. Do đó trong phần khai thị, Ngài nói rằng: “Đối với người học Phật. Tu hành không phải mỗi ngày tụng kinh, lễ Phật, gõ mõ. Vậy thì không phải, đó chỉ là một phần biểu hiện của sự tu hành, dáng vẻ bên ngoài. Thực chất chính là ngay trong cuộc sống hằng ngày, trong đối nhân xử thế, đem ân ân oán oán từ vô lượng kiếp hóa giải. Đây gọi là chân thật tu hành”. Khi đó chúng ta phát tâm niệm danh hiệu A-di-đà Phật thì sẽ cảm ứng đạo giao, tương ứng với Ngài.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
28/09/2017(Xem: 10132)
Jordi Al Emany là người sáng lập một công ty tư nhân. Vừa qua ông đã đăng một bài trên mạng xã hội, nói rằng tiền tài không phải vạn năng, có 10 thứ cho dù có gia tài bạc triệu cũng không mua được. Bài viết đã nhanh chóng nhận được sự hoan nghênh trên cộng đồng mạng, mọi người đều tán thành. Khi đang theo đuổi một cuộc sống hưởng thụ, ngàn vạn lần chúng ta cũng đừng nên bị mất phương hướng, chỉ vì ham muốn hưởng thụ vật chất, mà quên đi rằng có những thứ dù có tiền cũng không thể mua được.
27/09/2017(Xem: 6400)
Nhân cách là vấn đề cơ bản của "tâm lý học"; khoa tâm lý cho rằng nhân cách được hình thành bởi 3 yếu tố: -xã hội, sinh học và tâm lý. Con người là một động vật tự hữu về hoạt động, một phần chịu ảnh hưởng bởi giáo dục, bởi cộng đồng xã hội và cuộc sống chung quanh. Ngoài vấn đề nhận thức tiếp thu từ ngoại cảnh, ý thức tự thân còn chịu ảnh hưởng không nhỏ về tập khí mà nhà Phật gọi là hạt giống tiềm ẩn trong tâm thức. Điều này tạo nên sắc thái cá biệt từ ý thức đến nhân cách. Nhân cách có thể thay đổi tùy hoàn cảnh, tuổi tác và sự cố.
27/09/2017(Xem: 7568)
Giông bão từ đại dương liên tục đánh vào bờ, gây lũ lụt, tàn phá nhà cửa, làm thiệt mạng cả mấy trăm người ở miền trung nam và đông nam Hoa-kỳ, rồi Ấn-độ và Việt-nam trong tháng qua. Tiếp theo là động đất, làm hàng trăm người ở Mễ-tây-cơ tử vong, mất tích. Rồi lại bão, quét qua các đảo quốc phía biển đông nước Mỹ, lấy đi mạng sống mấy chục người. Rồi lại động đất đâu đó ở châu lục Á châu. Lại có dự đoán động đất mạnh tại California (the Big One) vào tháng 10 năm nay. Thiên tai liên tục thị uy, đe dọa đời sống nhân loại bằng sức mạnh vô bờ mà dù đã đạt đến những kỹ thuật tân tiến hiện đại, người ta vẫn chưa tìm ra cách nào để khống chế. Chỉ có tiên liệu, dự đoán mà thôi. Sự tiên liệu có thể làm giảm thiểu tổn thất từ một số người nơi một xứ sở nào đó, nhưng cũng không sao tránh được một số trường hợp cá biệt.
25/09/2017(Xem: 7273)
Con đường thực nghiệm tâm linh dẫn đến đời sống giải thoát và giác ngộ đã được đức Phật giảng dạy ở trong các kinh điển, từ cô đọng đến khai triển, từ hẹp đến rộng, từ cạn đến sâu, từ phương tiện đến cứu cánh, qua các văn hệ kinh điển từ A hàm đến Đại thừa với nhiều thính chúng và nhiều căn cơ khác nhau. Đạo đế ở trong Tứ Thánh đế được các kinh điển Phật giáo nhấn mạnh là con đường diệt tận khổ đau và thành tựu các thánh quả giải thoát cho những ai có tín căn và nỗ lực thực hành.
25/09/2017(Xem: 8837)
Hai phật tử tại Anh Quốc bị phạt 15,000 bảng Anh vì tội phóng sinhVietbf.com - Thời gian gần đây, toà án mới tuyên mức phạt 15,000 bảng (gần 500 triệu đồng) cho hai người liên quan là Zhixiong Li (33 tuổi) và Ni Li (30 tuổi) do phá hoại môi trường vì đem tôm hùm và cua ra biển phóng sinh. Những buổi lễ phóng sinh luôn khiến người ta cảm động với câu chuyện hàng trăm, hàng nghìn loài động vật được trả tự do, thả về với môi trường sống. Tuy nhiên cách đây 2 năm, hai phật tử phóng sinh một lượng lớn tôm hùm trị giá 5,000 bảng (hơn 150 triệu đồng) xuống vùng biển Brighton, Anh đã bị phạt 15,000 bảng (gần 500 triệu) vì "tàn phá" môi trường.
23/09/2017(Xem: 7793)
Xuất gia gieo duyên báo hiếu là một truyền thống văn hóa đặc sắc của các nước Phật giáo Nam truyền và đã dần trở thành một phần không thể thiếu, được xem như nghĩa vụ thiêng liêng của mỗi thanh niên trong một giai đoạn nào đó của đời mình.
15/09/2017(Xem: 10263)
Có thể nói trào lưu trong những năm gần đây về sự ra đời của nhiều quyển sách viết riêng cho người trẻ đã chiếm được lòng của đông đảo bạn đọc là những thế hệ 8X và 9X trong thị trường xuất bản sách tại Việt Nam.
15/09/2017(Xem: 6819)
Tôi, hơn mười năm trở lại, Nha Trang lớn dậy bề thế về mọi mặt, nhất là du lịch. Tôi là người ăn chay, được các chị tổ bếp lo cho những bữa cơm chay đầy đủ ngon miệng, tiếp lửa cho những trang viết mới toanh. Có lẽ đây là một duyên lành tôi nhận được. Tôi đã ở Nha Trang hơn bốn mươi năm trước, thường nghe câu ca dao của người dân:
15/09/2017(Xem: 12228)
Đôi Giòng Tâm Sự Mỗi bộ óc con người đều có một câu chuyện và sau đây là câu chuyện của bộ óc tôi… Hơn mười năm trước đây, tôi là giáo sư Đại học Y Khoa Harvard, chuyên nghiên cứu và giảng dạy cho sinh viên về bộ óc của con người. Nhưng vào ngày 10 tháng 12 năm 1996, tôi đã học được bài học về não bộ từ chính bộ óc của mình.
15/09/2017(Xem: 8815)
Ngày xưa tôi rất thích đi phóng sinh. Có khi cả nhóm đặt mua khá nhiều cá, tôm cua, ốc, chim,… để phóng sinh. Thật là hạnh phúc khi làm lễ phóng sinh và phóng sinh để cứu mạng các loài động vật đáng thương này.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]