Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

2. Danh hiệu thứ hai: Nam-mô A-di-đà Phật

18/09/201215:28(Xem: 10699)
2. Danh hiệu thứ hai: Nam-mô A-di-đà Phật

Ý NGHĨA CHÂN THẬT VỀ PHẬT GIÁO

Thích Hạnh Phú

IV. Ý NGHĨA CỦA CÁC DANH HIỆU PHẬT, BỒ-TÁT[2]

IV.2. Danh hiệu thứ hai: NAM-MÔ A-DI-ĐÀ PHẬT

Hiện nay, pháp môn niệm Phật ở nước ta tương đối phát triển, các chùa đều có tổ chức khóa tu niệm Phật dành cho Phật tử tại gia. Đa số Phật tử đều hiểu biết nhiều về hình tượng của A-di-đà Phật, nên người viết chỉ nêu thêm vài ý nghĩa để làm sáng tỏ hơn hình tượng của Ngài.

Adịch là Vô.

Di-đàdịch là Lượng.

Phậtdịch là Giác hoặc Trí.

Từ trên mặt chữ, ta thấy danh hiệu A-di-đà Phật dịch thành Vô Lượng Giác hoặc Vô Lượng Trí. “Vô Lượng” nghĩa là vốn chẳng thể nói. Không có gì chẳng phải là vô lượng: vô lượng công đức, vô lượng tài nghệ, vô lượng tướng hảo v.v…

Trong kinh A-di-đà, Đại sư Cưu-ma La-thập dịch danh hiệu A-di-đà Phật thành Vô Lượng Quang, Vô Lượng Thọ.

Vô lượng Quang: biểu thị cho không gian

Vô lượng Thọ: biểu thị cho thời gian

Không gian và thời gian biểu thị cho toàn thể hư không pháp giới, cũng là đức hiệu A-di-đà Phật.

  • Ý nghĩa hình tượng A-di-đà Phật.

Chúng ta thấy hình tượng của Ngài thường là đứng. Tay trái cầm đài sen có ý nghĩa như sau: Chúng sanh nào trong mười phương pháp giới phát tâm niệm danh hiệu A-di-đà Phật và phát nguyện cầu vãng sanh về nước Ngài, thì trên cõi Tây phương Cực Lạc liền mọc lên một đóa hoa sen (có ghi tên họ của mình). Trước giờ phút lâm chung nếu người bệnh niệm danh hiệu của Ngài từ 1 đến 10 tiếng, thì Ngài cùng chư vị Thánh chúng từ cõi Tây phương Cực Lạc cầm hoa sen này hiện thân tiếp dẫn người đó vãng sanh Cực Lạc.

Tay phải của Ngài duỗi thẳng xuống nhằm ý dìu dắt, nâng đỡ, khuyên tấn những chúng sanh còn đang mãi trầm luân trong biển sanh tử.

  • Hạnh nguyện của đức Phật A-di-đà.

Kinh Bi Hoa, đức Phật nói rằng: “Về kiếp lâu xa có vị vua Vô Tránh Niệm đối trước đức Phật Bảo Tạng Vương Như Lai phát 48 lời nguyện. Mục đích là tạo nên một cõi nước thanh tịnh, tốt đẹp, để tiếp dẫn tất cả chúng sanh khổ nạn có tâm mong cầu vãng sanh nhằm về đó tu tập, mau chóng thành Phật”.

Kinh Vô Lượng Thọ, Phật dạy: “Tiền thân đức Phật A-di-đà là vị vua tên Nhiêu Ích, nghe đức Thế Tự Tại Vương Như Lai thuyết kinh giảng đạo, sanh tâm hoan hỷ, nên phát tâm xuất gia hiệu là Tỳ-kheo Pháp Tạng. Vì muốn tạo nên một cõi nước trong sạch, thanh tịnh, tốt đẹp để tiếp dẫn tất cả chúng sanh nào trong mười phương phát tâm niệm Phật nguyện sanh về nước Ngài, nên tỳ-kheo Pháp Tạng đối trước đức Phật Thế Tự Tại Vương Như Lai phát 48 lời nguyện. Nội dung mỗi một nguyện đều hàm ý vì lợi ích chúng sanh, cứu độ chúng sanh”.

Hạnh nguyện của đức Phật A-di-đà, được pháp sư Tịnh Không gộp thu thành 4 chữ: “Tâm – Nguyện – Giải – Hạnh”.

- Tâm đức Phật A-di-đà là gì?

Phật dạy: “Chư Phật nhìn chúng sanh như những vị Phật. Còn chúng sanh nhìn chư Phật như những chúng sanh”. Chính vì thế, mà tâm của chư Phật lúc nào cũng chân thành, thanh tịnh, bình đẳng, từ bi, cung kính đối với tất cả chúng sanh.

A_DI_DA_PHAT

Nam mô A Di Đà Phật - ảnh minh họa

Vì “Phật Phật đạo đồng” nghĩa là tâm của đức Phật A-di-đà giống tâm đức Phật Thích-ca. Do đó chúng ta chỉ cần tìm hiểu tâm của đức Phật Thích-ca trong sinh hoạt đời sống hằng ngày khi còn tại thế, trong việc giáo hóa, trong cách ứng xử giao tiếp đối với chúng sanh. Tâm của Ngài luôn chân thành, bình đẳng, không phân biệt, từ bi, cung kính tất cả mọi người, trên từ các bậc vua chúa, các quan cho đến những người có thân phận thấp hèn nhất trong xã hội Ấn Độ lúc bấy giờ (tiêu biểu: Phật độ người gánh phân tên Ni-đề, Phật độ kỹ nữ Ambapàlì v.v…). Vì Ngài biết rằng do nghiệp lực ở quá khứ chi phối, nên mọi người đều mang một thân phận khác nhau, có người giàu sang, có người nghèo hèn, có người thông minh lanh lợi, có người ngu si đần độn, có người đẹp, có người xấu v.v… nhưng tất cả họ đều có chung một Phật tánhvà đều có thể thành Phật như những vị Phật ở quá khứ.

Công hạnh của đức Từ Phụ sáng ngời như thế, chúng ta là những Phật tử đang và sẽ bước trên con đường khi xưa mà Ngài đã đi. Vậy trong cuộc sống hằng ngày khi đối nhân xử thế, tâm của chúng ta có chân thành, thanh tịnh, không phân biệt, từ bi, cung kính với người, với vật không? Hay là tâm luôn nhìn thấy lỗi lầm người này, nói xấu người kia, tâm luôn sân si nóng giận với mọi người xung quanh. Trong Trung Phong Tam Thời Hệ Niệm Pháp Sự Toàn Tập, pháp sư Tịnh Không giảng rằng: “Ai còn có đối lập, ai vẫn còn cảm thấy không thoải mái khi nhìn người khác, thấy lỗi người này, nói xấu người kia, nóng giận với mọi người xung quanh thì phải tự hiểu người đó không thể vãng sanh. Nhất định phải học sao cho thấy ai tâm của mình cũng hoan hỷ, mình quyết định chẳng hủy báng họ, nói xấu họ. Ai lăng nhục mình, hủy báng mình, người ta hãm hại mình, mình cũng hoan hỷ, vui vẻ. Vì họ đã thay mình tiêu nghiệp chướng, quyết định chẳng có oán hận mảy may, quyết định chẳng có ý niệm báo thù, thì ta mới có thể vãng sanh về Tây phương Cực Lạc. Tu hành, trọng yếu nhất là phải sửa đổi những hành vi, lời nói, việc làm sai lầm của mình, làm sao cho đúng với hành vi, lời nói, công hạnh của chư Phật. Đó là tâm của Phật”.

Ngày nay Phật tử phát tâm niệm danh hiệu Ngài, phát nguyện cầu vãng sanh về nước Ngài thì ngoài vấn đề niệm Phật, trong cuộc sống chúng ta còn phải biết sửa đổi tâm tánh, tính tình. Như thế thì “nhớ Phật, niệm Phật, hiện tiền tương lai nhất định thấy Phật”.

- Nguyện của A-di-đà Phật là gì?

Mười phương ba đời hết thảy chư Phật trong lúc tu hành hạnh Bồ-tát đạo, hoặc khi đã thành Phật, đều phát những đại nguyện khác nhau nhằm mục đích cứu độ tất cả chúng sanh trong mười phương. Nhưng quy nạp lại không ngoài bốn nguyện lớn, đức Thế Tôn gọi là Tứ hoằng thệ nguyện (Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ - Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn – Pháp môn vô lượng thệ nguyện học – Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành). Nhưng trong tất cả chư Phật, nhất định có một vị Phật được tất cả chư Phật tán thán, khen ngợi. Ví như ở thế gian mọi người đều cùng một học vị Tiến sĩ nhưng trong đó tất có một vị được nhiều người tôn trọng, kính phục. Phật pháp cũng vậy, trong tất cả chư Phật thì đức Phật A-di-đà được mười phương chư Phật tán thán. Cổ đức nói: “Mười phương ba đời (quá khứ - hiện tại – vị lai) Phật, A-di-đà là bậc nhất”. Chính vì thế mà Thiện Đạo đại sư nói: “Như Lai sở dĩ hưng xuất thế, duy thuyết Di-đà bổn nguyện hải” (Sở dĩ Như Lai xuất hiện trong thế gian chỉ nhằm mục đích để nói biển bổn nguyện Di-đà). Bởi vì tâm tâm, nguyện nguyện của A-di-đà Phật một lòng luôn hướng về những chúng sanh đang khổ nạn, như mẹ hiền nhớ con thơ. Vì muốn cho chúng sanh có một hoàn cảnh, môi trường thật lý tưởng, tốt đẹp, hoàn mỹ, thanh tịnh, để chúng sanh vãng sanh về đó tu tập mau thành Phật. Ngài đã thăm viếng, học hỏi hai trăm mười ức cõi Phật, học những điều hay, chọn những thứ tốt để về xây dựng nên một thế giới Cực Lạc bậc nhất và đối trước Thế Tự Tại Vương Như Lai phát 48 lời thệ nguyện. Trong mỗi một nguyện đều hàm nhiếp vì hết thảy chúng sanh khổ nạn. Có thể khẳng định rằng điều kiện vãng sanh về nước Ngài so với chư Phật trong mười phương là dễ dàng nhất, thành tựu quả vị lại cao nhất. Chính vì thế mà được chư Phật tán thán, khen ngợi.

Xã hội ngày nay, còn rất nhiều người khổ nạn, nghèo khó, bệnh tật, v.v… Là những người học Phật, một lòng niệm Phật cầu vãng sanh, tu hạnh giải thoát, thì trong đời sống hằng ngày khi gặp những người khổ nạn, nghèo khó, bệnh tật, v.v… chúng ta phải khởi tâm từ, tâm yêu thương, tâm chia sẻ, tâm giúp đỡ đối với những chúng sanh khổ nạn này. Thay mặt A-di-đà Phật hoàn thành một phần nhỏ những hạnh nguyện của Ngài đối với tất cả chúng sanh. Làm được như thế thì khi chúng ta phát tâm niệm danh hiệu Ngài mới tương ứng, cảm ứng đạo giao: “Nhất niệm tương ứng nhất niệm Phật. Niệm niệm tương ứng niệm niệm Phật”.

- Giải của A-di-đà Phật là gì?

Giải nghĩa là trí tuệ. Tức là liễu giải chân tướng của nhân sanh và vũ trụ, liễu giải hết thảy người, sự, vật, giống như trí huệ của Phật, hiểu rõ mọi thứ, thấu hiểu mọi thứ, đối với mọi thứ chẳng mê hoặc điên đảo, xử sự, đãi người, tiếp vật chẳng sai lầm. Có như vậy thì mới có thể thực sự diễn nói cho người khác. Danh hiệu A-di-đà Phật dịch thành Vô Lượng Quang là trí tuệ vô lượng, trí tuệ rốt ráo viên mãn. Không điều gì mà Phật chẳng biết, từ quá khứ vô lượng đến vị lai tột cùng Ngài đều thấy biết rõ ràng. Nhờ có trí tuệ vô lượng, viên mãn nên Ngài giáo hóa chúng sanh một cách dễ dàng và thuận tiện.

Phàm phu chúng ta thường cho suy nghĩ, cách nhìn, cách làm của mình là đúng, là tiêu chuẩn. Nhưng trong kinh Phật nói, đợi đến khi nào chúng ta chứng đắc quả A-la-hán rồi, tức là khi đoạn được Kiến-Tư phiền não rồi, thì mới có thể tin vào ý nghĩ, cách nghĩ, cách nhìn của chính mình. Tông chỉ của đạo Phật là phá mê khai ngộ, chuyển phàm thành Thánh. Mê là do vô minh che lấp, không phân biệt đâu là chánh-tà, đúng-sai, phải-trái. Chính vì thế đức Phật dạy, trong cuộc sống chúng ta cần phải có “trí tuệ làm sự nghiệp”, lấy “chánh kiến” cái thấy đúng đắn, hợp với chân lý trong Bát chánh đạo làm phương châm sống để tiến tu trên bước đường học Phật giải thoát.

- Hành của A-di-đà Phật là gì?

Hành nghĩa là đức hạnh. Đức là đạo đức. Hạnh là lời nói, cử chỉ hành vi. Lời nói cử chỉ hành vi của người có đức hạnh. Trong mười pháp giới (địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh, người, A-tu-la, Trời, Thanh văn, Duyên giác, Bồ-tát và Phật), thì người có phẩm chất đức hạnh bậc nhất là Phật, không ai vượt qua. Chính vì thế mà trong kinh Vô Lượng Thọ, đức Phật Thích-ca tán thán A-di-đà Phật. Nghĩa là Phật Thích-ca thay mặt mười phương ba đời hết thảy chư Phật Như Lai tán thán A-di-đà Phật là “quang trung cực tôn, Phật trung chi vương” (tôn quý nhất trong các quang minh, là vua của các Phật), tán thán đến cùng cực. Lại ví đức hạnh của A-di-đà Phật sáng như mặt trăng ngày rằm, soi chiếu, xoa dịu đến tất cả chúng sanh đang trầm luân trong biển sanh tử.

Hiện nay, người niệm Phật rất nhiều, ai cũng biết điều kiện để vãng sanh về Tây phương Cực Lạc là phải có đầy đủ Tín – Nguyện – Hạnh. Nhưng Hòa thượng Tịnh Không nói rằng, trong một vạn người niệm Phật thì chỉ có hai, ba người vãng sanh. Đó là bởi do nguyên nhân gì? Trong Chú giải Quán Vô Lượng Thọ kinh, ngài Quán Đảnh đại sư nói rằng: “Người niệm danh hiệu A-di-đà Phật có 100 thứ quả báo, trong đó cái quả báo đầu tiên là đọa địa ngục”. Ngài giải thích, bởi vì người niệm Phật khởi tâm động niệm lời nói hành vi hoàn toàn trái với Phật pháp. Nghĩa là họ nói xấu người này, nhìn lỗi người kia, hay sân si, nóng giận với người xung quanh. Vô tình hay cố ý, họ đã phá hủy hình ảnh tốt đẹp của Phật giáo, của người tu hành, người niệm Phật. Người chưa học Phật nhìn thấy như thế không còn dám học Phật nữa, không còn dám đi chùa nữa. Người học Phật, niệm Phật giống như con dao hai lưỡi, nghĩa là trong cuộc sống hằng ngày chúng ta dùng “Tâm – Nguyện – Giải – Hành” của A-di-đà Phật làm “Tâm – Nguyện – Giải – Hành” của chính mình, ta phải là tấm gương tốt nhất cho mọi người xung quanh học theo, noi theo. Gia đình ta là tấm gương tốt nhất cho mọi gia đình trong xã hội học theo. Được vậy, thì công đức của ta rất lớn, người khác nhìn thấy như thế là vô tình chúng ta đã độ họ, chuyển hóa họ. Họ tìm đến đạo Phật, học Phật, chủng tử Phật tánh từ đây là sinh chồi, nảy mầm, lên cây, kết trái, giải thoát sanh tử. Công đức từ đây mà sanh ra. Ngược lại, nếu như mọi người xung quanh nhìn thấy ta còn những đức tính không tốt, tham lam, nóng giận, nói xấu người này, nhìn lỗi người kia, v.v…, họ không dám học Phật, vì nghĩ rằng đạo Phật không có gì tốt, đi chùa không có gì hay. Chủng tử Phật tánh bị vùi lấp thêm ngày càng dày, càng sâu. Tội chúng ta từ đây mà hình thành. Do đó trong phần khai thị, Ngài nói rằng: “Đối với người học Phật. Tu hành không phải mỗi ngày tụng kinh, lễ Phật, gõ mõ. Vậy thì không phải, đó chỉ là một phần biểu hiện của sự tu hành, dáng vẻ bên ngoài. Thực chất chính là ngay trong cuộc sống hằng ngày, trong đối nhân xử thế, đem ân ân oán oán từ vô lượng kiếp hóa giải. Đây gọi là chân thật tu hành”. Khi đó chúng ta phát tâm niệm danh hiệu A-di-đà Phật thì sẽ cảm ứng đạo giao, tương ứng với Ngài.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
26/07/2018(Xem: 5917)
5h sáng. Sớm tinh mơ. Tôi đã thức dậy, mở toang hết cửa cổng để đón tất cả nhân duyên của ngày mới còn đang lãng vãng lân la bên ngoài vào nhà. Khu vực ngoại thành này, tầm 8h -9h vẫn còn yên tĩnh, còn nghe được tiếng chim ca, tiếng gà cục tác, huống hồ chỉ mới vào thời khắc đón ánh bình minh dịu dàng từ hướng Đông... Gian phòng thờ đã lên đèn. Ánh hào quang sau thánh tượng đức Phật rọi soi ấm áp huyền diệu. Hoa đăng, hương trầm, bánh trái đã thiết bày trên các bàn thờ theo đúng nghi lễ được Thầy hướng dẫn, căn dặn... Thầy đến trước giờ hẹn nửa giờ đồng hồ, mới 7h30, triệu thỉnh thêm thánh tượng đức Địa Tạng Vương Bồ Tát từ chùa Tịnh Quang mà Thầy trú trì, để thiết trên bàn đặt giữa chính môn. Nửa giờ sau, thêm một thầy nữa quang lâm, thầy
24/07/2018(Xem: 6591)
Sinh ra ở cõi đời này, dù được sống trong vui vẻ hạnh phúc nhiều như thế nào đi nữa, thì cũng sẽ có lúc chúng ta cảm thấy cuộc sống thật là vô vị, bởi những chuyện không vừa ý cứ dồn vập đổ tới khiến chúng ta vô cùng chán nãn. Những lúc như thế chúng ta thường hay oán Trời trách đất, hay oán hận những người xung quanh đã gây bao nhiêu điều phiền muộn đau khổ cho chúng ta. Chúng ta trách tại sao trước mắt chúng ta có những người quá hạnh phúc, không phải lo toan điều gì, mới sanh ra đời đã được ở trong cảnh giàu sang nhung lụa, lớn lên lập gia đình cũng được sống trong cảnh sung sướng, lên xe xuống ngựa, kẻ hầu người hạ. Riêng chúng ta thì đầu tắt mặt tối, cực khổ vô cùng mà cơm không đủ no, áo không đủ mặc.
22/07/2018(Xem: 8873)
Thái Lan: Các cầu thủ đội bóng Heo rừng sẽ xuất gia 12 cầu thủ đội bóng “Heo rừng” và huấn luyện viên của họ đã được cứu thoát sau khi bị mắc kẹt 18 ngày trong một hang động ở Thái Lan, có khả năng sẽ xuất gia hạn định để bày tỏ sự kính trọng đối với Saman Kunan, cựu Hải quân Thái SEAL đã hy sinh trong nhiệm vụ giải cứu đội bóng.
22/07/2018(Xem: 7021)
Người con Phật nghĩ gì về án tử hình? Đứng về phương diện cá nhân, rất minh bạch rằng không Phật tử nào ủng hộ án tử hình. Đứng về phương diện quốc gia, thực tế là rất nhiều quốc gia -- nơi Phật giáo gần như quốc giáo, như Thái Lan, Miến Điện, Sri Lanka… -- vẫn duy trì và thực hiện án tử hình. Tại Thái Lan, án tử hình dùng để trừng phạt cho 35 tội hình sự, trong đó có tội sát nhân và buôn ma túy. Miến Điện cũng thế. Điểm hay là ở chỗ, hai quốc gia này tuyên án tử hình, nhưng rất ít khi thi hành án tử. Các quốc gia có đông dân số Phật tử -- như Trung Quốc, Việt Nam, Nhật Bản, Singapore, Đài Loan… -- vẫn áp dụng án tử hình, và thường xuyên thi hành án tử.
20/07/2018(Xem: 6461)
Xã hội tân tiến ngày nay, đã khiến cho con người không còn sống trong sự bình thản như ngày xưa, bởi vì nền văn minh kỹ thuật cơ khí, điện tử đã lôi cuốn người ta gia nhập và chạy đua với thời gian. Cái gì cũng phải nhanh, phải vội, cuộc sống bon chen, không ai chờ đợi ai.
20/07/2018(Xem: 7839)
Khóa tu mùa Hè Hoa Phượng Đỏ tại Tu viện Khánh An vào đầu tháng 7 đã qua nhưng đọng lại trong tôi dấu ấn cảm xúc vì rất nhiều hoạt động ý nghĩa làm sân chơi rất lành mạnh cho trẻ vừa học tập vừa rèn luyện. Cho con đi xong khóa hè về lòng nhẹ nhỏm đi rất nhiều vì những thay đổi rất tích cực của con mà đáng nói hơn là cảm xúc của chính bản thân tôi cũng được cơ hội gột rửa những phiền muộn khi tham gia Đêm Thắp Nến tri ân với nhiều ý nghĩa. TT Thích Trí Chơn đã cho các em giây phút trang nghiêm thanh tịnh dâng ngọn đèn cầu nguyện lên Tam Bảo. Giọng trầm ấm của Thầy đã dẫn đại chúng vào lời kinh thiêng trầm hùng, thanh thoát.
20/07/2018(Xem: 13800)
Vào tháng 10, mùa đông, nhằm tiết đại hàn, giá lạnh, vua Lý Thánh Tông (1023 – 1072) nói với các quan hầu cận rằng: "Trẫm ở trong cung, sưởi than xương thú, mặc áo lông chồn còn rét thế này, nghĩ đến người tù bị giam trong ngục, khổ sở về gông cùm, chưa rõ ngay gian, ăn không no bụng, mặc không kín thân, khốn khổ vì gió rét, hoặc có kẻ chết không đáng tội, trẫm rất thương xót. Vậy lệnh cho Hữu ty phát chăn chiếu, và cấp cơm ăn ngày hai bữa.” (1)
19/07/2018(Xem: 7267)
“Thử Đề Nghị Một Phương Thức Kết Hợp Những Người Con Phật Trong Nhiều Chi Nhánh Phật Giáo Việt Nam Cùng Sinh Hoạt Với Nhau” là một đề tài tế nhị, khó nói, và nói ra cũng rất khó tìm được sự đồng thuận của hầu hết chư Tôn Đức và đồng bào Phật tử hiện đang sinh hoạt trong nhiều chi nhánh Phật Giáo Việt Nam. Đề tài này hàm ngụ hai lãnh vực nội dung và hình thức sinh hoạt, và bao gồm ba hình thái tổ chức là các Giáo Hội Phật Giáo, các Hội Cư Sĩ, và các hệ thống Gia Đình Phật Tử.
19/07/2018(Xem: 4538)
Không hiểu từ lúc nào mà tôi đã tập được thói quen công phu mỗi ngày hơn một tiếng đồng hồ và dành thời gian tương tự cho việc lướt qua các trang mạng phật giáo để chọn lựa những bài thật bổ ích cho cái trí óc còn non kém của mình, hầu học hỏi thêm dù biết rằng kiến thức đó phải được tư duy và trải nghiệm . Và tôi rất hài lòng về thói quen này vì đần dần tự nhiên giống như tôi được khích lệ và ngày nào tôi cũng cảm nhận được cái không gian êm dịu đã ghé vào thăm cuộc đời tôi và cứ như thế tôi trôi theo dòng chảy của cuộc đời dù không phải là thuận duyên lắm, do vậy con cái tôi thường nói đùa rằng " Mẹ không thể nào trầm cảm được đâu "
18/07/2018(Xem: 6493)
Trong tất cả vũ trụ pháp giới thì cái gì là sáng nhất? Chỉ có thể là trí huệ là ngọn đèn sáng nhất soi sáng sự tối tăm mê mờ của vô minh, phá tan xiềng xích của sự buộc ràng thân tâm. Trí huệ mang tới cho hành giả một sự minh triết sáng suốt, là gươm báu chém đứt tham, sân, si nơi cõi lòng của tam độc gây bởi tạo nghiệp vô minh. Chỉ có trí huệ rõ biết hết thảy những vô thường sinh tử luân hồi, để từ đó xa lìa sự đắm nhiễm tâm trần nơi cõi thế. Và giúp cho hành giả tu tập tìm về sự giải thoát khỏi mọi sự phiền não, khổ đau của kiếp sống vô thường.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]