Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

23. Niệm Phật cầu vãng sanh cần phải ăn chay

13/04/201203:21(Xem: 10790)
23. Niệm Phật cầu vãng sanh cần phải ăn chay

NIỆM PHẬT THÀNH PHẬT

Thượng Tọa Thích Phước Nhơn

 

Niệm Phật cầu vãng sanh cần phải ăn chay

Phật thị hiện ra đời là vì nhìn thấy chúng sanh đang sống chết đau khổ trong lục đạo luân hồi, nên thể hiện tâm đại từ bi. Vì tâm đại từ đại bi mà Phật Di Đà đã phát bốn mươi tám lời nguyện để tiếp dẫn chúng sanh muốn đọa lìa sanh tử mà cầu sanh Tây Phương. Phật là đấng cha lành của chúng sanh nên có tâm đại từ đại bi bao trùm cả mười phương thế giới không có chỗ ngăn ngại. Chúng ta là con của Phật, miệng ta hằng ngày niệm danh hiệu của Phật Di Đà vậy ít ra chúng ta cũng phải có chút tâm từ bi. Chúng ta chưa có khả năng cứu độ chúng sanh thoát vòng sanh tử như chư Phật, thì ít ra cũng không nên làm cho những chúng sanh khác chung quanh ta phải chịu đau khổ. Chúng ta không phóng sanh, không giúp đỡ cho kẻ khác được an vui, thì ta cũng không nên giết hại thân mạng của chúng sanh khác để nuôi dưỡng thân mình.

Hằng ngày miệng ta niệm Phật cầu sanh Tây Phương, ta lại cũng dùng miệng này để ăn thịt chúng sanh khác; như vậy miệng ta vừa tạo thiện nghiệp mà cũng vửa tạo ác nghiệp; nhưng ác nghiệp lại nhiều hơn thiện nghiệp, vì thì giờ niệm Phật lại ít hơn là tạo ác, nên năng lực sanh về Tây Phương có điều không dễ. Miệng không ăn thịt là ta đã cắt đức được nhân ác nơi cõi Ta Bà. Miệng niệm danh hiệu Phật Di Đà là ta đang gây nhân của cảnh cực Lạc; nên biết rằng ăn chay niệm Phật cầu sanh Tây Phương, mười người tu mười người vãng sanh.

Thế gian thường nói ăn chay không đủ chất bổ dưỡng làm cho người dễ sanh bệnh tật; kỳ thật chúng ta hãy vào bệnh viện xem bệnh nhân đủ mọi bệnh trạng khác nhau có mấy ai là người ăn chay. Những bệnh nan y như: ung thư, AIDS, gan, tiểu đường.. không phải bệnh vì ăn chay mà do ăn thịt và bia rượu quá độ. Ngày nay khoa học tiến bộ, các nhà nghiên cứu sinh tố thực phẩm đã cho ta biết; thịt, bia, rượu, thuốc lá mang nhiều vi khuẩn bệnh tật đến loài người hơn là trái cây, rau củ, ngũ cốc. Các nhà khoa học khuyên mọi người nên ăn trái cây, rau cải, ngũ cốc nhiều hơn là thịt để tránh những bệnh nan y như máu cao, ung thư... chúng ta thử để một ký thịt cá, một ký rau cải vào một nơi nào đó trong vòng vài ngày, ta thấy rau cải sẽ có mùi hôi rồi sau đó lại khô đi; nhưng một ký thịt thì sẽ đi từ trạng thái hôi đến thúi và, sau đó sẽ sanh ra nhiều con dòi bò chung quanh miếng thịt. Nên ta biết trong thịt có nhiều độc tố hơn là rau cải. Như vậy, cũng biết rằng ăn chay niệm Phật, hiện tại thân ít bệnh, tâm trong sạch, sau khi chết được sanh về cảnh giới Phật.

Nhìn lại trong cuộc sống khi chúng ta chạy tị nạn đến các đảo hay muốn đi di dân qua nước Úc, nước Mỹ chẳng hạn, sau khi chính phủ Úc hay Mỹ đã nhận, họ bắt chúng ta phải đi khám bệnh; nếu có bệnh thì phải trị cho đến hết trước khi vào Úc hoặc Mỹ. Ngay khi vào Úc rồi họ cũng phải thử máu khám nghiệm lại một vài lần nữa để diệt trừ những căn bệnh mà chúng ta đang có, vì họ sợ lây bệnh đến những người khác trong xã hội mới mà mình đang ở. Cũng vậy, Tây Phương Cực Lạc là xã hội thuần khiết thanh tịnh của bậc bất thối tâm Bồ Tát tạo thành, chúng sanh ở đó chỉ nghe pháp tiến tu, không có đường ác, không ăn thịt, không trộm cắp, không tà dâm...., thân tâm được nuôi dưỡng bằng thanh lương Phật pháp. Vì lẽ ấy mà chúng sanh trong thế giới Ta Bà niệm Phật cầu vãng sanh về Tây Phương, cũng phải dọn rửa thân tâm cho thật sạch trước khi vãng sanh, để khỏi phải làm ô uế cảnh giới và lây bệnh cho chúng sanh ở Tây Phương bằng cách ăn chay cho thân tâm mình cũng được thanh tịnh. Ăn chay cũng là đang chữa những thứ bệnh mà chúng sanh ở thế giới Ta Bà đang mang lấy: tài, sắc, danh, thực, thùy, những thứ ngũ dục trước khi muốn di dân về Tây Phương. Chiếc phi thuyền Bát Nhã chở chúng sanh từ Ta Bà đến Tây Phương sẽ không chuyên chở ở nơi toa hành lý những thứ tài, sắc, danh lợi, ăn uống, ngủ nghỉ; vì nó là đồ quốc cấm nên hải quan ở Tây Phương sẽ không cho vào. Người niệm Phật mà còn ăn thịt, còn tham đắm ngũ dục lại muốn sanh về Tây Phương thì cũng giống như ở đây người muốn di dân vào Úc nhưng trong người thì đang mang bệnh AIDS, và, hành lý mang theo lại chứa toàn là cần sa, bạch phiến. Thỉnh chư vị hãy cẩn trọng ăn chay niệm Phật để cầu sanh tây Phương.

Trồng cà thì được cà, trồng đậu thì được đậu, nhân nào quả nấy. Xưa kia đất trồng cà thì ta bán cà, nay đổi lại trồng đậu thì ta bán đậu không thể bán cà. Cũng vậy, xưa ta ăn thịt là gây nhân đau khổ sanh tử của súc sanh, ngạ quỷ, địa ngục; nhưng nay đổi lại ăn chay niệm Phật thì sẽ sanh về cảnh Tây Phương, chứ không thể rơi vào ác đạo được. Thỉnh chư vị đừng nghi ngờ!

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
15/05/2021(Xem: 4934)
Không nói được tiếng Tây Tạng và chưa bao giờ dịch tác phẩm nào nhưng Evans-Wentz được biết đến như một dịch giả xuất sắc các văn bản tiếng Tây Tạng quan trọng, đặc biệt là cuốn Tử Thư Tây Tạng ấn bản năm 1927. Đây là cuốn sách đầu tiên về Phật giáo Tây Tạng mà người Tây Phương đặc biệt quan tâm. Ông Roger Corless, giáo sư Tôn Giáo Học tại đại học Duke cho biết: “Ông Evans-Wentz không tự cho mình là dịch giả của tác phẩm này nhưng ông đã vô tình tiết lộ đôi điều chính ông là dịch giả.”
15/05/2021(Xem: 5065)
Ngay sau tác phẩm Mối tơ vương của Huyền Trân Công Chúa, người đọc lại được đón đọc Vua Là Phật - Phật Là Vua của nhà văn Thích Như Điển. Đây là cuốn sách thứ hai về đề tài lịch sử ở thời (kỳ) đầu nhà Trần mà tôi đã được đọc. Có thể nói, đây là giai đoạn xây dựng đất nước, và chống giặc ngoại xâm oanh liệt nhất của lịch sử dân tộc. Cũng như Mối tơ vương của Huyền Trân Công Chúa, tác phẩm Vua Là Phật - Phật Là Vua, nhà văn Thích Như Điển vẫn cho đây là cuốn tiểu thuyết phóng tác lịch sử. Nhưng với tôi, không hẳn như vậy. Bởi, tuy có một số chi tiết, hình ảnh tưởng tượng, song dường như rất ít ngôn ngữ, tính đối thoại của tiểu thuyết, làm cho lời văn chậm. Do đó, tôi nghiêng về phần nghiên cứu, biên khảo, cùng sự liên tưởng một cách khoa học để soi rọi những vấn đề lịch sử bấy lâu còn chìm trong bóng tối của nhà văn thì đúng hơn. Ở đây ngoài thủ pháp trong nghệ thuật văn chương, rõ ràng ta còn thấy giá trị lịch sử và hiện thực thông qua sự nhận định, phân tích rất công phu của
15/05/2021(Xem: 4429)
Ấm ma là hiện tượng hóa ngôn ngữ. Trong kinh Lăng Nghiêm nói đến 50 ấm ma là nói đến biến tướng của nghiệp thức, của các kiết sử thông qua lục căn từng giao tiếp với lục trần trên nền tảng “ sắc-thọ-tưởng-hành-thức”.
15/05/2021(Xem: 4089)
Đọc xong tác phẩm nầy trong một tuần lễ với 362 trang khổ A5, do Ananda Viet Foundation xuất bản năm 2017, Bodhi Media tái xuất bản tại Hoa Kỳ trong năm 2020 và tôi bắt đầu viết về Tác phẩm và Tác giả để gửi đến quý độc giả khắp nơi, nếu ai chưa có duyên đọc đến. Nhận xét chung của tôi là quá hay, quá tuyệt vời ở nhiều phương diện. Phần giới thiệu của Đạo hữu Nguyên Giác gần như là điểm sách về nhiều bài và nhiều chương quan trọng trong sách rồi, nên tôi không lặp lại nữa. Phần lời bạt của Đạo hữu Trần Kiêm Đoàn cũng đã viết rất rõ về sự hình thành của Gia Đình Phật Tử Việt Nam ở trong nước, từ khi thành lập cho đến năm 1975 và Ông Đoàn cũng đã tán dương tuổi trẻ Việt Nam cũng như tinh thần học Phật, tu Phật và vận dụng Phậ
10/05/2021(Xem: 4687)
Chỉ có bốn chữ mà hàm chứa một triết lý thâm sâu ! Chỉ có bốn chữ mà sao chúng sanh vẫn không thực hành được để thoát khỏi sự khổ đau ? Nhưng cũng chỉ bốn chữ này có thể giúp chúng sinh phá được bức màn vô minh, đến được bến bờ giác ngộ, thoát vòng sinh tử !
08/05/2021(Xem: 4149)
Chủ đề bài này là nói về tỉnh thức với tâm không biết. Như thế, nghĩa là những gì rất mực mênh mông, vì cái biết luôn luôn là có hạn, và cái không biết luôn luôn là cái gì của vô cùng tận. Cũng là một cách chúng ta tới với thế giới này như một hài nhi, rất mực ngây thơ với mọi thứ trên đời. Và vì, bài này được viết trong một tỉnh thức với tâm không biết, tác giả không đại diện cho bất kỳ một thẩm quyền nào. Độc giả được mời gọi tự nhìn về thế giới trong và ngoài với một tâm không biết, nơi dứt bặt tất cả những tư lường của vô lượng những ngày hôm qua, nơi vắng lặng tất cả những mưu tính cho vô lượng những ngày mai, và là nơi chảy xiết không gì để nắm giữ của vô lượng khoảnh khắc hôm nay. Khi tỉnh thức với tâm không biết, cả ba thời quá, hiện, vị lai sẽ được hiển lộ ra rỗng rang tịch lặng như thế. Đó cũng là chỗ bà già bán bánh dẫn Kinh Kim Cang ra hỏi ngài Đức Sơn về tâm của ba thời.
04/05/2021(Xem: 3594)
Một khi Đức Đạt Lai Lạt Ma rời Tây Tạng, ngài sẽ phải đối diện với nhiệm vụ khó khăn về việc nói với thế giới những gì đã xảy ra ở quê hương ngài và cố gắng để có được sự giúp đở cho người dân của ngài. Ngài cũng phải chạm trán với sự tuyên truyền của truyền thông Tàu Cộng rằng ngài đã bị bắt cóc. Tuy nhiên, nhu cầu thiết yếu nhất là để bảo đảm nhà ở và thực phẩm cho những người Tây Tạng đã đi theo ngài lưu vong. Ngài đã hướng đến chính phủ Ấn Độ, và họ đã không làm ngài thất vọng. Trong thực tế, Ấn Độ cuối cùng đã tiếp nhận hơn một trăm nghìn người tị nạn, cung cấp chỗ ở, và nuôi dưỡng họ, cho họ làm việc, và thiết lập những ngôi trường đặc biệt cho trẻ em Tây Tạng. Những tu viện Phật giáo Tây Tạng cũng được xây dựng ở Ấn Độ và Nepal.
30/04/2021(Xem: 6875)
Thưa Tôi. Hôm nay là ngày sinh nhật của Tôi, xin được phép thoát ra khỏi cái tôi để nhìn về tôi mà phán xét và đưa ra cảm nghĩ. Hình dạng tôi đã già rồi, tóc đã bạc hết cả đầu. Tôi đã trải qua một thời gian dài sinh sống làm việc và cuối đời nghỉ hưu. Tôi đã bắt đầu thấm thía cái vô thường của thời gian mang lại. Tôi cũng đã thấm thía cái sức khỏe đã đi xuống nhanh hơn đi lên. Tôi cũng đã thấm thía tình đời bạc bẽo cũng như tình cảm (Thọ) là nỗi khổ đau của nhân sinh. Tôi cũng đã hiểu rõ thế nào là ý nghĩa đích thực của cuộc sống, đó là bất khả tương nghị không thể thốt lên thành lời. Chỉ có im lặng là đúng nghĩa nhất. Ngày xưa khi lục tổ Huệ Năng của Thiền tông chạy trốn mang theo y bát thì thượng tọa Minh rượt đuổi theo để giết lấy lại. Đến khi gặp mặt thì lục tổ mang y bát ra để trên tảng đá rồi núp dưới tảng đá bảo thượng tọa Minh hãy lấy y bát đi mà tha chết cho người. Thượng tọa Mình lấy bát lên, nhắc không lên nổi vì nó quá nặng bèn sợ hãi mà quỳ xuống xin lục tổ tha c
30/04/2021(Xem: 6950)
Thiền Uyển Tập Anh chép Đại sư Khuông Việt Ngô Chân Lưu (933 – 1011) tu ở chùa Phật Đà, Thường Lạc nay là chùa Đại Bi núi Vệ Linh Sóc Sơn, Hà Nội. Ngài thuộc thế hệ thứ 4 Thiền phái Vô Ngôn Thông. Ngài người hương Cát Lợi huyện Thường Lạc, nay thuộc huyện Sóc Sơn, Hà Nội, thuộc dòng dõi Ngô Thuận Đế (Ngô Quyền). Theo Phả hệ họ Ngô Việt Nam, Thiền sư Ngô Chân Lưu tên huý là Xương Tỷ, anh trai Thái tử - Sứ quân Ngô Xương Xý, con Thiên Sách Vương Ngô Xương Ngập, cháu đích tôn của Ngô Vương Quyền. Ngài dáng mạo khôi ngô tuấn tú, tánh tình phóng khoáng chí khí cao xa, có duyên với cửa Thiền từ năm 11 tuổi.
27/04/2021(Xem: 5045)
Tánh Không ra đời một thời gian dài sau khi đức Phật Nhập diệt do Bồ tát Long Thọ xiển dương qua Trung Quán Luận. Mặc dầu khi còn tại thế đức Phật có nói về Tánh Không qua kinh A hàm và Nikaya. Nơi đây Phật có nói về tánh xuất gia của hành giả đi tu. Hạng người tâm xuất gia mà thân không xuất gia thì gọi là cư sĩ. Và hạng người tâm và thân xuất gia thì gọi là tỳ kheo. Tánh Không cũng có hiện hữu trong kinh Tiểu không bộ kinh trung bộ. Phật có dạy: nầy Ananda, Ta nhờ ẩn trú Không nên nay ẩn trú rất nhiều. Kế tiếp Phật có dạy trong kinh A hàm về các pháp giả hợp vô thường như những bọt nước trôi trên sông: sự trống không của bọt nước.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]