Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

15. Vạn người niệm Phật vạn người vãng sanh

13/04/201203:21(Xem: 11161)
15. Vạn người niệm Phật vạn người vãng sanh

NIỆM PHẬT THÀNH PHẬT

Thượng Tọa Thích Phước Nhơn

 

Vạn người niệm Phật vạn người vãng sanh

Ấn Quang Tổ sư một vị Cao Tăng Trung Quốc cận đại có dạy: “mạt pháp cận đại muôn vạn người tu khó được một vài người chứng đạo, duy chỉ nương theo pháp môn Tịnh Độ niệm Phật cầu vãng sanh khả dĩ được giải thoát”. Phật pháp chia ra làm ba thời kỳ: lúc Phật còn tại thế cho đến một ngàn năm sau Phật nhập diệt là thời kỳ chánh pháp, thính chúng trực tiếp nghe Phật và các vị Bồ Tát, A La Hán thuyết giảng, tự quán sát tu tập, vạn người tu đạo, vạn người chứng đạo. Sau một ngàn năm Phật nhập diệt, Tăng đoàn đại đệ tử toàn là những vị Bồ Tát, A La Hán truyền bá Phật pháp, hướng dẫn mọi người tu học, do ảnh hưởng tu tập của các vị Thánh Tăng, nên hàng đệ tử đối với sự chứng ngộ giải thoát có phần dễ dàng, trăm người tu năm bảy chục người chứng đạo; thời gian này cũng kéo dài cả ngàn năm sau thời chánh pháp được gọi là thời tượng pháp, từ năm Phật lịch 1000 đến năm 2000 (Tây Lịch 500-1500). Thời kỳ mạt pháp bắt đầu từ Phật Lịch 2001 (DL1501) đến 10,000 năm sau. Hiện tại chúng ta đã ở thời kỳ mạt pháp khoảng 500 năm, nên biết rằng chỉ nương theo pháp môn niệm Phật mà thoát sanh tử, ngoài ra tu các pháp môn khác cũng tốt nhưng vạn người tu khó có được vài người chứng đạo giải thoát. Pháp môn tu cũng phải tùy thời tùy cơ phù hợp với điều kiện và phương tiện cho người tu; vì xã hội hiện tại cơ khí quá nhiều nên con người cũng trở thành quá cơ tâm; do đó chỉ y lục tự Di Đà mới tiêu trừ được cơ tâm mà đưa người về nơi cõi Tịch Quang Tịnh Độ. Đành rằng pháp môn nào cũng do Phật dạy, nhất là chính Phật do ngồi thiền mà thành Phật chứ không do niệm Phật mà thành Phật. Nhưng căn cơ chúng sanh thì có khác (nếu không thì chúng ta thành Phật rồi), nên đến thời mạt pháp duy chỉ lấy sáu chữ Di Đà mà được độ thoát. Giống như chúng ta trồng cây, phải tùy theo thời tiết khí hậu thì cây mới phát triển; cây phù hợp với khí hậu nhiệt đới ta không thể đem trồng ở nơi hàng băng. Mùa đông lạnh ta không thể không mặc áo ấm, mà chỉ mặt một chiếc áo mỏng của mùa hè tuy rằng chiếc áo được may bằng một loại vải đặc biệt và được kiến bởi một thợ may nổi tiếng.

Chúng ta là người học Phật tự biết rằng, mọi sự vật có mặt ở thế gian dầu do nhơn duyên giả hợp tạo thành và bị chi phối bởi định luật biến đổi vô thường của vũ trụ: sanh, trụ, dị, diệt; hay thành, trụ, hoại, không; Phật pháp hay phương pháp tu cũng không ngoại lệ. Thiền đã đưa người tu chứng liễu sanh thoát tử trải qua hơn hai ngàn năm và nay đến thời kỳ suy yếu, đây cũng là lẽ tự nhiên không có gì phải bối rối lo âu mà cần biện luận. Do đó, chúng ta không cần thiết phải đặt câu hỏi tại sao trong các chùa Bắc Tông tuy là nằm trong hệ thống thiền; nhưng, hai thời công phu thì chuyên về Tịnh Độ và có pha lẫn một ít Mật Tông, như một vị Thiền sư đương thời đã đặt câu hỏi. Hoặc vị Thiền sư khác cho rằng cần phải phục hồi thiền Tông; nếu chúng ta làm được thì đâu còn định luật của thành, trụ, hoại, không; mà ngay cả thuyết vô thường biến đổi cũng không còn chỗ đứng, và, nếu như vậy thì Phật pháp luôn ở trong thồi kỳ chánh pháp, làm gì có tượng pháp và mạt pháp. Cho nên, điều cần thiết mà người tu muốn nói đó là làm sao giúp ích cho mọi tầng lớp quần chúng tu tập được kết quả, diệt đau khổ ở thế gian, liễu sanh thoát tử, càng nhiều càng tốt; chớ không phải chỉ lo bàn đến phương pháp tu mà không đem lại kết quả cho quảng đại quần chúng.

Căn cơ chúng sanh cách đây hai ngàn năm phù hợp cho sự thiền tọa và, nhiều người đã tu chứng đạo không có một vị tổ sư nào của Tịnh Độ Tông không vui vẻ thấy những người bạn mình được chứng quả; vì quý ngài biết rằng thời kỳ truyền bá pháp môn niệm Phật cho quần chúng chỉ ở thời mạt pháp, không phải là ở thời chánh pháp và tượng pháp. Quý ngài là những bậc đại triệt đại ngộ nên nhìn thấy rõ được sự lưu hành của các pháp trong vũ trụ. Và tại sao từ năm trăm năm trở lại đây (đang bước vào thời kỳ mạt pháp) thiền tập đang suy dần và pháp môn niệm Phật đang được phổ cập rộng rãi trong quảng đại quần chúng, từ hàng xuất gia đến người tại gia ai ai cũng niệm Phật; Tăng cũng như tục ở các quốc gia Trung Hoa, Việt Nam, Đại Hàn, Nhật Bản, Đài Loan... mỗi khi gặp nhau đều niệm: “A Di Đà Phật”. Sự kiện trên cho ta thấy Tịnh Độ Tông đang ở vào thời kỳ cực thịnh và phổ cập trong quần chúng hơn các pháp môn tu khác. Cho nên các Tổ, ngay cả các ngài Vĩnh Minh, Triệt Ngộ, Liên Trì... là những Thiền sư nổi tiếng sau khi chứng đạo, đã cầu vãng sanh Tây Phương và, đã giới thiệu mọi người nên niệm Phật cầu vãng sanh là pháp môn tu phù hợp nhất cho thời mạt pháp.

Trong kinh Đại Tập đức Thế Tôn có dạy: “mạt pháp muôn vạn người tu, một vài người chứng quả, duy chỉ nương nơi niệm Phật mà được đoạn sanh tử”. Đây là lời của các Tổ sư bên Tịnh Độ Tông, lại càng không phải là lời của Thiên Ma hay ngoại đạo. Điều đó cũng cho ta biết rằng đức Phật không chỉ tùy theo căn cơ của chúng sanh lúc Ngài còn sanh thời để hóa độ; mà, Ngài cũng tùy căn cơ của chúng sanh trong thời mạt pháp như chúng ta hiện tại nên phương tiện thuyết giảng pháp môn niệm Phật cầu vãng sanh. Cho nên nói pháp môn niệm Phật là môn tu đơn giản và hợp cho mọi người ở thời mạt pháp là vậy.

Lời nói trên là của Như Lai nói ra, nếu ai có nghi ngờ hay cho rằng tu theo niệm Phật là không hợp, hoặc chỉ giành riêng cho những người yếu kém khả năng tự lực...thì đó chẳng phải là Phật tử, mà đó là những bạn hữu của ngoại đạo, là tín đồ của Thiên Ma. Dầu cho những vị đó là người cạo tóc xuất gia, mặc áo Như Lai, mà có lòng nghi ngờ lời nói Như Lai, nói những lời làm cho nhiều người hoang mang; như vậy, người ấy thật sự là người không có chánh kiến, nói những lời điên đảo, là con dân của ma.

Vì lẽ trên thỉnh chư vị thiện hữu tri thức không nên có tâm giao động, có lòng nghi ngờ; dầu cho có người danh tiếng đông đảo người theo, thuyết giảng biện tài phi thường, nói rằng phương pháp tu này hay, phương pháp tu nọ mau chứng quả... thì xin chư vị hãy nhất tâm không loạn động trước sau như một chuyên cần trì niệm danh hiệu “A Di Đà Phật” mà cầu vãng sanh về Tây Phương. Phật Di Đà đang chờ đón quý vị như mẹ trông con, thời mạc pháp không còn con đường nào khác hợp với ta hơn, xin chư vị đừng chần chờ, hãy cố gắng niệm Phật. Nam Mô A Di Đà Phật!

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
18/09/2010(Xem: 14966)
Phật bảo sáng vô cùng Đã từng vô lượng kiếp thành công Đoan nghiêm thiền tọa giữa non sông Sáng rực đỉnh Linh Phong
17/09/2010(Xem: 10909)
Gốc tiếng Phạn của chữ cà-salà kasaya.Nhưng thật sự chữ kasayatrong tiếngPhạn không có nghĩa là áomà có nghĩa là bạc màu, cáu cặnhay hư hoại. Sách tiếng Hán dịch chữ này là đạm(màu nhạt), trọchay trược (đục, dơ bẩn, ô nhiễm, rác bẩn), hoặc còn dịch là hoại sắc,bất chính sắc, hư nát, dính bẩn…Tóm lại chiếc áo cà-sacủa người xuất gia tu Phật, của hàng tỳ kheo,…tượng trưng cho những gì nghèonàn, thô sơ, tầm thường, và khiêm nhường nhất. Người đọc, nếu chưa có ý niệm gìvề chiếc áo của một nhà tu Phật giáo, cũng có thể hơi ngạc nhiên khi đọc nhữngđiều vừa nêu trên đây.
10/09/2010(Xem: 58732)
Một cuộc đời một vầng nhật nguyệt (quyển 3) Vào thời không có đức Phật Chánh Đẳng Giác ra đời, tại vùng Allakappa bị dịch bệnh hoành hành, lây lan từ người này sang người khác, nhà này sang nhà khác làm cho rất nhiều người chết, đói kém xảy ra khắp nơi. Những người còn mạnh khỏe, chưa bị lây nhiễm
08/09/2010(Xem: 6989)
Chịu đựng sự nhục nhã và lời thóa mạ là đức tính quan trọng nhất mà mỗi ngươi có thể rèn luyện, bởi vì sức chịu đựng là vô cùng mạnh mẽ, tại vì chỉ một giây phút tức giận là có thể phá hủy hết công đức của cả một đời người.
07/09/2010(Xem: 8241)
Chúng ta chỉ có một địa cầu. Người Phật tử và những người có lương tri trên hành tinh này đều giống nhau, đều khát vọng an bình toàn cầu, như cọng cỏ khát ánh mặt trời, như cá khát dòng sông êm dịu. Thế nhưng, khi chúng ta đứng trên một bình diện nào đó của địa cầu, huớng về khát vọng, chúng ta sẽ thất vọng phát hiện: quả địa cầu này tràn đầy bạo động và bất an, chiến tranh cục bộ, tranh giành quân bị, xung đột địa giới, dân tộc mâu thuẫn, giáo phái phân tranh, chủng tộc kỳ thị, tà giáo ngang ngược, khủng bố đe dọa, buôn chích ma túy, tàn phá môi trường, tài nguyên cạn kiệt, giàu nghèo chênh lệch, tội phạm gia tăng, công chức hủ hóa, HIV hoành hành và vô số bệnh thái sa đọa khác của xã hội loài người. Tất cả đó, dù trực tiếp hay gián tiếp, đã và đang phủ lên một màu sắc u ám, đe dọa đến sự an bình trên quả địa cầu này.
04/09/2010(Xem: 12441)
Tôi được một vị Tăng sinh ở Saigon mời góp ý kiến về Bát Kính Pháp khoảng hai tuần trước, nhưng vì khá bận rộn với những công việc tại đây (vừa lo thi cử cho việc trường lớp xong thì lại có duyên sự Phật sự 10 ngày tại Minnesota) nên đã khất hẹn với vị ấy là: khi nào tranh thủ được thời gian thì tôi sẽ xem xét vấn đề kỹ hơn để bàn cùng quý vị. Lúc ấy tôi nghĩ rằng: những vị Tăng sinh này sẽ tìm được câu trả lời cho những nghi vấn liên quan đến Bát Kính Pháp nhanh chóng thôi, vì ở Việt Nam hiện có rất nhiều chư Tôn Đức chuyên nghiên cứu, hiểu sâu sắc và hành trì Luật tạng miên mật, các vị dễ dàng đến đảnh lễ thưa hỏi.
04/09/2010(Xem: 7596)
Đọc xong những câu chuyện của các phụ nữ ở Hoa Kỳ và kinh nghiệm của các vị đối với đạo Phật, chúng tôi đã rất hoan hỷ và xúc động trước những nhận thức sâu xa của họ về cuộc sống, con người và môi trường chung quanh... Những lời dạy của đức Phật vừa nhiệm màu vừa thực tiễn đến làm sao! Những lời giảng dạy ấy đã chữa lành, loại bỏ những khổ đau và đem lại sự bình an, hạnh phúc đến hàng vạn con người trong nhiều thế kỷ qua. Sau đây là các câu chuyện của những phụ nữ người Hoa Kỳ từ các nguồn gốc khắp nơi trên thế giới. Những câu chuyện về hạnh phúc và sự sống trong tỉnh thức của họ qua sự tu tập và trở về với Đạo Phật. Chúng tôi xin hân hạnh giới thiệu và chia xẻ cùng bạn đọc.
02/09/2010(Xem: 7509)
Phiêu linh bao kiếp luân hồi - Phút giây hội ngộ, đời đời khổ đau - Mịt mùng tăm tối lạc nhau- Mang mang sáu cõi lao đao kiếm tìm
30/08/2010(Xem: 9873)
Nhiều người cho rằng Phật giáo là một tôn giáo nên không có sự quan hệ với vấn đề kinh tế đó là nhận định sai lầm, bởi vì con người là một hợp thể do ngũ uẩn tạo thành chia làm hai phần là Vật chất (sắc) và tinh thần (danh). Con người không thể chỉ dựa vào tinh thần không thôi mà có thể tồn tại được, nhưng con người cũng không thể chỉ là động vật thuần nhất về kinh tế vật chất.
30/08/2010(Xem: 10185)
Đạo đức là ngành học đánh giá các hành vi con người biểu hiện qua các hành động của thân, lời và ý do lý trí, ý chí và tình cảm cá nhân thực hiện. Các nhà tư tưởng và các nhà đạo đức thường quan niệm khác nhau về giá trị, tiêu chuẩn giá trị. Dù vậy, vẫn có nhiều nét tư tưởng gặp gỡ rất cơ bản về ý nghĩa đạo đức, nếp sống đạo đức mà ở đó giá trị nhân văn của thời đại được đề cao.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]