Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

07. Niệm Phật phải cầu sanh Tây Phương Cực Lạc

13/04/201203:21(Xem: 10068)
07. Niệm Phật phải cầu sanh Tây Phương Cực Lạc

NIỆM PHẬT THÀNH PHẬT

Thượng Tọa Thích Phước Nhơn

 

Niệm Phật phải cầu sanh Tây Phương Cực Lạc

Hầu hết Bắc Tông Phật Giáo bao gồm tu sĩ và cư sĩ hàng ngày đều niệm câu “ Nam Mô A Di Đà Phật” ít nhất là trong lúc chào hỏi gặp nhau. Điều này cho thấy là pháp môn Tịnh Độ đã ăn sâu vào tư tưởng của người Phật tử. Tuy hầu hết đều biết niệm câu: “Nam Mô A Di Đà Phật” nhưng không biết mục đích của sự niệm Phật nên thường hay rơi vào những trường hợp sau: nhiều tín đồ thường xuyên đi chùa lễ Phật, thấy bạn bè niệm Phật, ham vui tự mình cũng gia nhập theo hàng ngũ để niệm Phật tụng kinh, nhưng không rõ niệm Phật để làm gì? Tuy rằng sự tu niệm nầy cũng có mang lại một ít phước đức, nhưng không phải là sự mong cầu Phật đạo.

- Có người niệm Phật là để cầu cho con cháu sung túc, đoàn tụ gia đình làm ăn phát đạt, sức khỏe dồi dào, buôn bán nhiều lợi lộc, phát tài trúng số... điều này cũng tốt nhưng không hợp với sự mong cầu giải thoát.

- Có người vì đời sống khổ sở, tình cảm đau khổ, buồn chán, gặp điều không vừa ý, diện mạo xấu xa; phát tâm niệm Phật mong cầu hết khổ đời này, đời sau sanh làm người xinh đẹp. Tiền của giàu có không bị người khinh chê... như vậy không hợp với sự liễu sanh thoát tử của nhà Phật, và cũng không hợp bàn nguyện của chư Phật ra đời.

- Lại có người nhận thấy sự đau khổ của cuộc đời mà Phát tâm niệm Phật để cầu sanh lên các cõi Trời được hưởng lạc an vui, niệm như thế cũng không là người chân chánh niệm Phật, chưa đúng với pháp môn Tịnh Độ.

- Hoặc có người niệm Phật mong bỏ thân này chuyển lại kiếp sau gặp được Phật pháp xuất gia tu học, hoằng dương chánh pháp, lợi lạc chúng sanh; niệm phật như vậy cũng chưa gọi là đầy đủ trí lực trong lúc niệm Phật. Vì sao? Vì khi chuyển thế đầu thai, tuy rằng có gặp Phật pháp, xuất gia tu học, nhưng không chắc chắn là kiếp đó mình có thể chứng được đạo, dù rằng túc duyên đầy đủ thiện nghiệp có thừa, có thể ngộ được đạo; nhưng chưa chứng thì con đường sanh tử vẫn còn nên sự mê mờ e rằng khó thoát giống như: Giám Không đại sư đời Đường, hoặc Viên Quán đại sư đời Đường, hoặc Viên Quán đại sư, Pháp Vân đại sư, Hải Ấn đại sư, Mạt Sơn đại sư, Giới Diễn thiền sư....các vị nầy chuyển thế đầu thai kiếp thứ ba phần nhiều đi vào thế tục bỏ mất hạnh nguyện của kẻ xuất gia, như vậy dần dần sẽ rơi vào mê lộ sanh tử trở lại, và cơ hội sa đọa vào ba đường ác khó mà thoát khỏi. Giới Diễn thiền sư là kiếp trước của Tô Đông Pha sau khi làm quan chẳng những đã không tu, không hộ trì chánh pháp mà lại còn hủy báng chống phá Phật pháp cho đến khi gặp Phật Ấn thiền sư mới hóa độ được ông. Điều này cho thấy niệm Phật cầu kiếp sau chuyển thế làm người xuất gia không phải là việc tốt. Nhìn lại thời mạt pháp, chúng ta lại càng không nên phát nguyện chuyển thế làm người xuất gia tu học; vì chướng duyên nghịch cảnh quá nhiều, trong một đời kế tiếp nếu không chuyển được đạo thì lại phải phập thai và, phần phước đức hữu lậu sẽ có cơ hội làm ngăn cản bản nguyện mong cầu giải thoát ban đầu và đưa chúng ta đi vào nhiều phen sanh tử.

Vậy chúng ta phải niệm Phật như thế nào mới đúng tinh thần mong cầu của mình và hợp với bản nguyện của chư Phật xuất thế độ sanh trong mười phương thế giới ba đời?

Chư Phật trong mười phương Ứng Thân nhập thế là vì muốn cho tất cả chúng sanh đi vào đạo quả giải thoát, liễu sanh thoát tử. Bản nguyện này nói rất rõ trong kinh Pháp Hoa. Chư Phật nhìn thấy chúng sanh sẵn có đầy đủ các đức tướng Như Lai; nhưng, vì nghiệp duyên trần lao trói buộc nên mãi chịu sống loạn thác cuồng trong mê lầm ảo ảnh. Khi có được chút ít thiện duyên phước đức thì sanh lên các cõi Trời hưởng phước, tuy nhiên khi hết phước thì cũng bị đọa lạc trong vòng ác đạo. Nếu thiện duyên không có mà ác nghiệp lại nhiều thì con đường ác đạo mở cửa đón chờ. Cho nên, Thế Tôn muốn cho chúng sanh trong sáu nẻo luân hồi thật sự phải đoạn trừ sanh tử. Đoạn trừ sanh tử ấy là chứng quả vi A La Hán, nhưng quả vị A La Hán chỉ có những vị xuất gia mới chứng được, còn lại đa số quần chúng Phật tử thì lại không đạt đươc. Đoạn sanh tử thiền gia gọi là kiến tánh chứng ngộ, nhưng mấy ai mà thiền tọa được chứng ngộ, họa chăng cũng chỉ mới có đủ công năng thiền tọa đến chỗ kiến tánh chứng ngộ, mà đa phần phải nhập thai chuyển thế để tiếp tục tu; nhưng thời mạt pháp, Phật pháp dần dần đi vào chỗ hủy diệt theo định luật tự nhiên: thành, trụ, hoại, không của vạn pháp. Vậy chuyển thế để tiếp tục tu, con đường nghịch cảnh khó khăn vạn lần, trăm người chuyển thế một vài người chứng ngộ.

Đa số quần chúng tu tập theo thiền tọa thì nhiều lắm cũng chỉ đạt được chút ít định tâm thì giống như lấy đá đè cỏ, cỏ tuy không mọc nhưng củ rễ vẫn còn, gặp duyên tản đá bị lăn đi nơi khác thì cỏ liền mọc trở lại. Cho nên biết rằng chỉ có pháp môn niệm Phật cầu vãng sanh Tây Phương là dễ dàng và phổ cập cho mọi tầng lớp từ xuất gia đến người tại gia cư sĩ mong muốn cầu đoạn trừ sanh tử chứng quả Niết Bàn ở thời mạt pháp này.

Vậy nên niệm Phật mà chỉ mong cầu chút phước báo ở cõi trời hoặc cõi người; hay niệm Phật mà mong cầu chuyển thế làm vị Cao Tăng đều là phí công chưa đúng mức của sự niệm Phật, mà, cũng không phù hợp với bản nguyện độ sanh của chư Phật. Chúng ta phải một lòng phát đại hùng tâm; tín, hạnh, nguyện đầy đủ mong quyết xả bỏ thân ngũ uẩn giả tạm đời này ở thế giới Ta Bà mà cầu sanh về Tây Phương cực Lạc, nhập vào đại chúng bất thối Bồ Tát thì con đường chứng quả Phật đạo không còn xa, lúc ấy chúng ta cũng có thể Ứng Thân trở lại thế giới Ta Bà mà không sợ bị ác duyên làm mê muội.

Như vậy, hiện tại là đến thời kỳ mạt pháp, chướng duyên nghịch cảnh trùng trùng, ác hữu ác nhân đầy dẫy, người tu hành chứng đạo thì quá ít, phần nhiều xuôi theo thế tục, hoặc họa lắm thì chỉ hiểu trên văn chương chữ nghĩa; hay nói đến thiền tọa hình như chỉ còn là phong trào, còn sự chứng ngộ thì cũng như ánh sáng đom đóm ở giữa hư không. Do vậy, đại chúng đồng tu có tâm mong cầu đoạn sanh tử trong một đời thì không còn pháp môn tu nào thuận tiện và dễ dàng cho quý vị hơn là pháp môn niệm Phật cầu vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc gặp Phật A Di Đà.

Ấn Quang đại sư một bậc Cao Tăng cận đại, là tổ thứ mười ba của Tịnh Độ Tông ở Trung Hoa có dạy: “Thời mạtpháp, chúng sanh nghiệp nặng, tâm tạp; nếu ngoài pháp môn niệm Phật mà tu các pháp môn khác. Chỉ gieo được phần trí tuệ, phước đức căn lành thì có; nhưng phần liễu thoát sanh tử luân hồi trong hiện thế thì không. Tuy có một vài vị cao đức phi thường, song đó chỉ là những bậc Bồ Tát hiện thế mà làm mô phạm cho chúng sanh, như Kinh Lăng Nghiêm đã nói. Nhưng các vị ấy cũng chỉ nương theo trình độ chúng sanh mà thị hiện ngộ đạo chứ không phải chứng đạo. Pháp môn Tịnh Độ thời nay tuy ít người chứng được niệm Phật tam muội như xưa; nhưng cũng có thể nương theo nguyện lực của mình và bản nguyện của Phật A Di Đà mà đới nghiệp vãng sanh về cõi Cực Lạc. Từ đây không còn sanh tử luân hồi, mà lần tu tập cho đến lúc chứng quả vô sanh”.

Sự thù thắng và phổ cập của pháp môn niệm Phật cho quảng đại quần chúng ngoài sự giới thiệu cửa Đức Thích Ca Mâu Ni, tiếp theo còn có các vị Bồ Tát khuyên bảo mọi người nên nguyện vãng sanh về Tây Phương như: Văn Thù, Phổ Hiền, Mã Minh, Long Thọ; các vị Tổ sư cả thiền lẫn tịnh như: Vĩnh Minh, Trí Giả, Triệt Ngộ, Liên Trì, Thiện Đạo, Ngẫu Ích, Ấn Quang... Vĩnh Minh, Triệt Ngộ, Liên Trì đều là những thiền sư nổi tiếng bên Thiền Tông sau khi tham thiền đạt ngộ, chuyển hướng niệm Phật cầu vãng sanh. Phải biết pháp môn niệm Phật là nhiệm mầu và hợp cơ với chúng sanh thời mạt pháp đến dường nào. Quý tổ sư là bậc thạc đức Cao Tăng mà còn niệm Phật mong cầu về Tây Phương huống chi ta là hàng hậu học phước mỏng tội dày; vả lại hàng cư sĩ tại gia duyên nghiệp chồng chất mà không mong hướng về tây Phương Cực Lạc thì còn đường nào khác để đi.

Trong kinh Hoa Nghiêm phẩm phổ hiền sau khi Bồ Tát Phổ Hiền phát mười đại nguyện, khuyến phát các vị Bồ tát từ Thập Tín, Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng cho đến Thập Địa đều nên phát nguyện cầu vãng sanh về Tây Phương. Cho nên biết rằng những ai vì bảo vệ Tông Môn hay có lối nhìn thiên kiến mà chê hay phê bình pháp môn Tịnh Độ là yếu kém, ươn hèn vọng ngoại, không tự lực được phải nhờ tha lực, là pháp môn tu để cho ông già bà cả, cho những người dốt nát ít học, Phật Thích Ca không phải do niệm Phật mà thành Phật. Như vậy, là họ tự khinh chê chính bản thân của họ, hoặc tệ hại hơn họ tự khinh chê đức Thế Tôn Thích Ca Mau Ni Phật, các vị bồ Tát Mã Minh, Long Thọ, Văn Thù, Phổ Hiền,là những vị tổ của Thiền Tông hay các vị Thiền sư chính tông như: Vĩnh Minh, Triệt Ngộ, Liên Trì... do đây xin nhắc nhở những người tu thiền, hãy chuyên tâm thiền định cho đến ngày kiến tánh chứng đạo; không phải chỉ ở chỗ ngộ đạo; đừng nên tạp niệm để ý phân biệt đó đây mà rơi vào vòng biên kiến. Đối với liên hữu niệm Phật nên vững tâm tiến bước trên đường niệm Phật với đầy đủ tín, hạnh, nguyện cũng chắc, mong cầu sanh về Tây Phương Cực Lạc đừng bận tâm đối với ngoại cảnh chung quanh, dầu cho ngoại cảnh ấy là những trường hợp đặc biệt. Có như vậy thì một hoa sen ở ao Liên Trì nơi cảnh Tây Phương vừa mọc lên đã ghi sẵn tên riêng của mình để chờ ngày đón rước quý vị.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
27/09/2010(Xem: 9717)
Những ngày đầu tiên trở lại Los Angeles sau gần hai chục năm, tình cờ tôi có mua được một số sách của một vị Đại Lạt ma Tây Tạng tên là Tarthang Tulku viết thẳng bằng tiếng Anh và xuất bản tại Califomia từ khoảng năm sáu năm nay thôi; cảm giác đầu tiên là một niềm vui mừng khôn tả khi nhìn thấy một vị tu sĩ Phật giáo viết văn thuyết giảng Phật Pháp qua một văn khí hùng mạnh và ngôn ngữ giản dị trong sáng như lưu ly và những vấn đề trầm trọng nhất của nhân loại hiện nay đã được đặt ra và giải quyết một cách triệt để.... Khi những trực nhận nội tại mình trở nên rõ ràng và thông suốt hơn thì sự tập trung tư tưởng sẽ giúp đỡ mình điều khiển tỉnh lực mình về hướng đi cần thiết.
26/09/2010(Xem: 7894)
Trong lịch sử Phật giáo Trung Quốc có vua Lương Võ Đế rất tin tưởng Phật pháp, song bà Hoàng hậu tên Hy Thị được vua yêu quý nhất thì tánh lại độc ác...
26/09/2010(Xem: 9249)
Từ trong lòng Tánh Không luận đi ra, người ta thử thay đổi các bình diện biểu lộ của nó, rồi qua những gì sẽ đạt được, trong lãnh vực suy lý cũng như trong lãnh vực sinh hoạt thực tế...
26/09/2010(Xem: 8025)
Phong trào phát triển một đường lối Phật Giáo mới, về sau này được gọi là Mahayana (Đại thừa), bắt đầu thành hình trong thời gian 250 năm, từ năm 150 TCN đến 100 CN...
25/09/2010(Xem: 8867)
Tượng Phật là để thờ, tất nhiên: như sự bày tỏ niềm tri ân, tôn kính của người Phật tử. Nhưng không chỉ thế, tượng Phật còn để chiêm ngưỡng: như một lối trang trí...
25/09/2010(Xem: 9716)
Mọi sự mọi vật theo luật vô thường, chuyển biến liên tục không bao giờ ngừng nghỉ, nhất là chúng thay đổi mau chóng. Con người do không rõ được lẽ vô thường sinh diệt đó...
25/09/2010(Xem: 8431)
Pháp môn Lạy Phật không phải chỉ có các Phật tử thuộc truyền thống Tịnh Độ thực hành, nhưng phương pháp này cũng được các truyền thống khác tu tập.
25/09/2010(Xem: 8384)
Đây là một danh từ rất phổ thông trong chốn thiền môn. Pháp khí là những đồ dùng trong chùa nhưng đúng với Phật Pháp như chuông mõ, khánh, tang đẩu, linh, chung cổ...
25/09/2010(Xem: 18078)
Thứ nhất, nghĩ đến thân thể thì đừng cầu không bịnh khổ, vì không bịnh khổ thì dục vọng dễ sinh. Thứ hai, ở đời đừng cầu không hoạn nạn, vì không hoạn nạn thì kiêu sa nổi dậy.
24/09/2010(Xem: 11949)
Tronghệ thống giáo điển Phật đà, cả Nam truyền và Bắc truyền đều có những bài kinh, đoạn kinh nói về công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ rất là cảm động. Cũngnhư có những trang kinh đức Phật chỉ dạy phương pháp báo đáp ân đức sâudày đối với song thân một cách thiết thực nhất. Có nghĩa là đức Phật đãchỉ bày cách báo ân chơn chánh, hợp đạo lý, có lợi ích trong hiện đời và mai sau...
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]