Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

03. Chướng Ngại và Sự Ðề kháng

24/07/201208:03(Xem: 6991)
03. Chướng Ngại và Sự Ðề kháng

NGAY TRONG KIẾP SỐNG NÀY
Tác giả: Sayadaw U. Pandita
Dịch giả: Khánh Hỷ

Các Tầng Thiền Minh Sát

oo0oo

Chướng Ngại và Sự Ðề kháng

Tâm thiếu chánh niệm như bóng tối che phủ căn phòng không đèn đuốc vào lúc nửa đêm, bóng tối si mê và ngu muội tràn ngập. Bóng đêm thì dầu sao nó cũng chỉ là trống rỗng và bình thường. Trong khi đó, mỗi một phút giây bị si mê che lấp thì tâm sẽ tiếp tục tìm kiếm, đeo đuổi theo dục lạc ngũ trần. Con người vì sắc tốt, tiếng hay, mùi thơm, vị ngon, nơi động chạm vừa lòng mà bỏ ra biết bao nhiêu thời gian để săn đuổi, tìm kiếm, nắm giữ và dính mắc vào chúng. Bị dính mắc vào những phiền não rối như mớ bòng bong khiến họ không thể nào hiểu được một loại hạnh phúc khác cao hơn, vượt xa hơn các loại ngũ dục thông thường. Chúng ta làm sao có thể giải thích cho những người như thế hiểu được những loại hạnh phúc thanh cao, tối thượng hơn do việc hành thiền đem lại.

Thiền Minh Sát là hoàn toàn và liên tục chú tâm vào đề mục bao gồm cả hai khía cạnh của hai sự định tâm, đó là tầm và tứ, hay hướng tâm và áp đặt tâm trên đề mục. Hai thiền chi này giúp cho tâm hút chặt vào đề mục ghi nhận. Nếu chúng vắng mặt thì tâm sẽ phóng đi nơi khác. Khi tâm bị ngũ dục và phiền não, nhất là những phiền não do sự mong muốn hưởng thụ lâu dài các dục lạc chi phối, tâm sẽ bị tràn ngập bởi mờ tối và si mê. Khi tâm bị mờ tối và si mê thì ba chi thiền còn lại làm sao có được ánh sáng, có được cơ hội để tao ngộ với hai yếu tố đầu tiên hầu tạo nên một môi trường an tịnh, tĩnh lặng, vui vẻ, trong sáng cho hoa trí tuệ khai nở?

Năm Chướng Ngại

Có năm chướng ngại khiến cho tâm trượt ra khỏi đề mục. Phiền não thì nhiều vô cùng vô tận và ở dưới nhiều dạng thức khác nhau, nhưng ta có thể kể đến năm chướng ngại chính. Gọi chúng là chướng ngại vì chúng cản trở sự hành thiền của chúng ta.

Bao lâu tâm còn bị say mê bởi những cám dỗ của dục lạc thì tâm không thể an nhiên để quán sát đề mục, khiến chúng ta không thể đi trên con đường giải thoát dẫn đến hạnh phúc thanh cao vượt hẳn những hạnh phúc bình thường của thế gian.

Như vậy, tham ái là chướng ngại đầu tiên và to lớn nhất đối với việc hành thiền của chúng ta.

Khi đối diện với một đề mục không vừa lòng thích ý thì tâm tràn đầy sân hận, và tâm cũng rời khỏi đề mục chính hay rời khỏi hướng đi đến chân hạnh phúc. Ðây là chướng ngại thứ hai, sân hận.

Có lúc sự tinh tấn và nỗ lực mất đi, tâm trở nên giải đãi, lờ đờ, thụ động, lười biếng, thì tâm cũng không thể ở trên đề mục được. Sự dã dượi buồn ngủ này là chướng ngại thứ ba.

Ðôi khi tâm nhảy từ đề mục này sang đề mục khác và không an trụ được trên đề mục chính. Tâm bất an và giao động, đầy rẫy những tư tưởng hối tiếc, ân hận, lưu luyến quá khứ, lo âu, suy nghĩ đến tương lai. Ðó là chướng ngại thứ tư.

Chướng ngại thứ năm là hoài nghi, phân vân, do dự, thiếu quyết đoán. Thiền sinh gặp phải những trở ngại này khi họ nghi ngờ khả năng của chính mình, nghi ngờ phương pháp hành thiền và nghi ngờ cả thiền sư nữa. Nhiều lúc so sánh việc hành thiền của mình với người khác hay với những gì mình học được khiến tâm thiền sinh như tê liệt chẳng khác nào kẻ lữ hành trước ngã ba đường, chẳng biết định hướng để tiếp tục hành trình.

Khi những phiền não này hiện diện thì tâm thiếu hẳn tầm, tứ, hỉ, lạc và nhất tâm. Năm thiền chi này chỉ là năm yếu tố của tầng định thứ nhất. Chúng sẽ được phát triển tròn đủ, trọn vẹn khi việc hành Thiền Minh Sát có kết quả. Mỗi chi thiền sẽ diệt được một chướng ngại.

Nhất Tâm Diệt Trừ Tham Ái

Trong dục giới này, tham ái là chướng ngại chính kìm hãm chúng ta trong tối tăm mờ mịt không lối thoát. Ðịnh tâm hay nhất tâm là phương pháp đối trị tham ái. Khi an trụ trên đề mục thiền thì tâm không bị dính mắc vào những tư tưởng, cũng như không bị mê đắm vào dục lạc như sắc tốt, tiếng hay, mùi thơm, vị ngon, nơi đụng chạm vừa lòng. Lúc ấy tham ái không còn đủ sức mạnh để chi phối tâm. Tâm không bị phân tán hay tán loạn, mà tập trung vào đề mục hay còn gọi là nhất tâm.

Hỉ Diệt Trừ Sân Hận

Khi tâm định vào đề mục một cách ổn cố và lâu dài thì hỉ phát sinh. Sự phát triển của hỉ này giúp cho tâm thoát khỏi chướng ngại thứ hai bởi vì sân hận không thể xuất hiện và tồn tại cùng một lúc với tâm hỉ. Bởi thế, hỉ có công năng diệt trừ sân hận.

Lạc Diệt Trừ Bất An Dao Ðộng

Khi việc hành thiền phát triển tốt đẹp thì những cảm giác an lạc, thoải mái phát sinh. Tâm quán sát các đề mục không vừa ý một cách thản nhiên, ung dung tự tại, không sân hận, không bực mình. Thiền sinh sẽ an nhiên tự tại, bình thản dù cho đề mục có khó khăn, phức tạp, rắc rối đến đâu. Nhiều khi nhờ chánh niệm mà sự đau nhức tan biến dần, để lại cảm giác dễ chịu trên cơ thể. Khi thân và tâm đều an lạc thoải mái, sự tập trung tâm ý hay định tâm trên đề mục sẽ bền vững, tâm sẽ chẳng chạy đi đâu. Khi lạc có mặt thì bất an và giao động sẽ rũ áo ra đi.

Tầm Diệt Trừ Dã Dượi Buồn Ngủ

Tầm có khả năng khai mở và giúp tâm bị khô héo tươi mát trở lại, khiến cho tâm tích cực và khai mở. Khi tâm liên tục tinh tấn hướng chính xác vào đối tượng thì dã dượi buồn ngủ không phát sinh. Khi bị dã dượi buồn ngủ chi phối thì tâm sẽ bị co rút và trở nên thụ động. Khi tầm có mặt thì dã dượi buồn ngủ sẽ rút lui.

Tứ Diệt Trừ Hoài Nghi

Khi tầm phát triển, có sự hướng tâm vào đối tượng, thì tâm sẽ áp đặt lên trên đề mục, chà xát lên trên đề mục, trú trên đề mục. Ðó là tứ hay sát, tên của chi thiền thứ hai. Tứ có công năng giữ cho tâm liên tục dính vào đề mục quán sát. Khi có sự chú tâm liên tục vào đề mục quán sát thì hoài nghi sẽ không có cơ hội hiện khởi, vì tâm hoài nghi không bao giờ an trú trên một đề mục mà chạy đây, chạy đó. Khi tứ có mặt thì tâm không trượt khỏi đề mục do đó hoài nghi biến mất.

Trí tuệ chưa chín muồi cũng khiến hoài nghi gia tăng. Nếu không có sự thực hành thâm sâu và thuần thục thì chắc chắn là không thể nào thấy được giáo pháp vi diệu. Thiền sinh mới có thể băn khoăn thắc mắc về những gì đã nghe mà chưa tự thân chứng nghiệm, nhưng càng cố tâm suy nghĩ về điều này bao nhiêu, thì trí tuệ sẽ bị thu hẹp bấy nhiêu. Những suy nghĩ như thế này chẳng đem lại lợi ích chi mà còn có hại. Nếu thiền sinh cứ tiếp tục suy nghĩ sẽ dẫn đến sự chỉ trích. Nếu cứ tiếp tục suy nghĩ theo lối này thì sự phát triển trí tuệ sẽ bị ngăn chận. Nếu tâm luôn luôn quán sát chặt chẽ, kỹ lưỡng đề mục quán sát thì các tư tưởng chỉ trích, chống đối, phỉ báng, v.v... sẽ không bao giờ có cơ hội phát khởi.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
01/04/2013(Xem: 5831)
Thế giới ngày nay không còn là thế giới của nửa thế kỷ đã qua. Những quan niệm về tốt - xấu đang nhanh chóng đổi thay, những ứng xử tinh thần đang trên đà chuyển biến và quan niệm chung về cuộc sống của con người cũng khác trước nhiều.
01/04/2013(Xem: 6297)
Tiếng Pali của "tám pháp thế gian" là "atthalokadhamma". "Attha" là tám, "loka" là thế gian, và "dhamma" là pháp. Atthalokadhamma còn được dịch là Bát Pháp, hay Bát Phong, là tám ngọn gió làm rung chuyển thế gian ...
01/04/2013(Xem: 8849)
MỤC NGƯU ĐỔ là tranh chăn trâu. Tranh ra đời tự triều đại nào, dưới ngọn bút lông nào, khó mà tra cứu cho đích xác được. Điều chắc chắn là tranh có từ xa xưa lắm, ban đầu chỉ có sáu bức, sau thất lạc luôn ...
01/04/2013(Xem: 14066)
Một ngày nóng, rồi một ngày lạnh . Người ta cứ mãi triền miên giữa những cơn nóng lạnh bức bách. Bức bách đến kỳ cùng, cho đến khi lòng người vĩnh viễn đắm chìm tận lòng biển.
01/04/2013(Xem: 8339)
Trải qua hơn 25 thế kỷ, giáo lý đức Phật và bức thông điệp của Ngài gửi cho nhân loại vẫn còn vững chắc tồn tại với thời gian. Trong những sự nghiệp vĩ đại được xem như vĩnh cửu và bất biến, ta phải kể trước nhất là giáo pháp của đức Phật ...
01/04/2013(Xem: 4570)
Có một bài thuyết pháp của Đức Thế Tôn mà không thấy sách sử ghi lại, bài thuyết ấy cũng tại Vườn Nai, xứ Ba La Nại, được nói ra trước bài kinh Tứ Diệu Đế chỉ vài giờ ...
01/04/2013(Xem: 7643)
Một lần nọ, tôi hỏi một vị Sư “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm”có phải là câu hay nhất trong kinh Kim Cang không thì Sư nhẹ nhàng bảo không, trong kinh Kim Cang câu nào cũng hay cả! Quả thật dần dần tôi cũng thấy ra kinh Kim Cang chỗ nào cũng hay cả, mà hình như ngày càng hay hơn, nhất là khi… áp dụng vào đời sống hằng ngày, đúng như Edward Conze nói. Cách viết, cách trình bày từng chữ từng câu trong kinh Kim Cang chặt chẽ, thuyết phục và nói chung là… hấp dẫn! Tôibị cuốn hút vào Kim Cang cũng như trước kia với Tâm Kinh. Tâm Kinh- dạycho Xá Lợi Phất, một đại đệ tử thông tuệ, trí thức nhất của Phật- hình như là để trả lời rốt ráo cho câu hỏi Tại sao,mang tính lý thuyết; còn Kim Cang thì nói cho Tu Bồ Đề
31/03/2013(Xem: 8197)
Một ngạn ngữ nhà Thiền vẫn thường được nhắc đến để sách tấn, khuyên răn Tăng Ni trong việc tùng chúng tu tập, giữ mình không rơi vào những sa ngã, kéo lôi của dòng thế tục, đó là câu: “Tăng ly chúng tăng tàn, hổ ly sơn hổ bại” (Tăng mà rời đại chúng thì tăng suy tàn; cọp mà xa rừng thì cọp thất bại).
30/03/2013(Xem: 7245)
Lại nói Tu Bồ Đề kính cẩn đặt hai câu hỏi với Phật: “…làm thế nào để an trụ tâm, làm thế nào để hàng phục tâm?” thì Phật bảo rằng không có gì khó cả, các vị Đại Bồ tát đều hàng phục tâm bằng cách như vầy… như vầy… “Ông hãy lắng tai nghe cho kỹ đây. Ta sẽ vì ông mà nói”. Tu Bồ Đề hớn hở: “Xin vâng, xin vâng. Con đang rất muốn nghe!”.
29/03/2013(Xem: 7714)
N ăm nay (2006) Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Chi Bộ Đức Quốc và Hội Phật Tử Việt Nam Tỵ Nạn tại Cộng Hòa Liên Bang Đức đăng cai tổ chức kỳ thứ 18 Khóa Tu Học Phật Pháp Âu Châu, từ ngày 27 tháng 7 năm 2006 đến ngày 5 tháng 8 năm 2006 tại địa điểm
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]