Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Thư Gởi Đệ Tử 01

25/12/201112:52(Xem: 6829)
Thư Gởi Đệ Tử 01
Thư Gởi Đệ Tử
Tác giả: Viên Minh

Lắng nghe hay ngắm nhìn thực tại thì có thể thực hiện bất cứ ở đâu và lúc nào vì tâm và cảnh luôn có mặt tại đây và bây giờ mà không cần chờ đợi một thời gian, thời gian chính là sinh tử.

Bửu Long, ngày 8-6-2001

NH. con.

Con đúng là một nhà văn viết rất lưu loát và diễn đạt khá rõ ràng về đời sống nội tâm vốn rất phức tạp và ẩn hiện khó lường. Những điều con nói đều đúng. Thầy chưa bao giờ phản đối những khoá thiền, dù là thiền định hay thiền tuệ, dù ở trung tâm Mahasi hay ở thiền viện Ngài Shwe Oo Min. Tất nhiên mỗi cách mỗi nơi đều có ưu điểm của nó đem lại lợi lạc không ít cho nhiều người. Nhưng không phải vì thế mà đợi khi nào phiền não đầy ắp rồi mới vào thiền viện để giải quyết. Và giải quyết tạm ổn một thời gian rồi lại đâu vào đó nên lại phải vào thiền viện… Cứ như thế nhu cầu vào thiền viện trở nên biện pháp sẽ là hoặc phải là đối với thực tại đang là. Chính đó là môi trường cho thời gian, lo tính, chán nản, hy vọng và phiền não phát sinh vì hy vọng ngày mai ta sẽ thực sự giải quyết những phiền não này trong điều kiện lý tưởng của thiền viện nên ngay bây giờ ta có cảm giác như chưa thể đối đầu với thực tại hiện tiền này. Thế là có một khoảng trống để những impulsion và stress hoành hành.

Khi đối diện với chính mình, tối kỵ là để yếu tố thời gian và tư tưởng xen vào. Không đối diện với mục đích giải quyết, trấn an, không chờ đợi một trạng thái lý tưởng đối nghịch với trạng thái hiện hành tức là không tham mà cũng không ưu, không nắm giữ, không loại bỏ, chỉ lắng nghe, quan sát một cách khách quan trong cảm thông hoặc thư xả.

Cảm thông tức là phải nhìn pháp với tâm từ, không phê phán, không trấn áp, không loại bỏ, không thay thế. Nói một cách khác là phải biết mỉm cười với chính mình vì chung quy đó là pháp như thị chứ không phải pháp của ta mà sẽ là hay phải là theo ý của ta.

Thư xả tức là thân tâm thư giãn và buông xả tự nhiên chứ không nỗ lực có mục đích để rồi tạo thành khoảng trống của thời gian.

Có thể điều kiện của thiền viện giúp con dễ dàng đẩy lùi phiền não, nhưng sự vắng bóng của nó gây ra một ảo tưởng an bình. An bình cũng tốt, nhưng với người thực sự chánh niệm tỉnh giác thì trạng thái an bình và trạng thái phiền não đều có giá trị thực tánh như nhau. Dập tắt phiền não không phải là loại bỏ nó để đổi lấy an bình vì lúc bấy giờ an bình là một thứ phiền não nguy hiểm hơn và vi tế hơn. Một bên hướng đến sân một bên hướng về tham. Thế mà chánh niệm tỉnh giác thật sự thì không có tham ưu nên đó là cái nhìn vào phiền não mà không phiền não và phiền não chỉ là pháp sanh diệt không phải của ta.

Để cái ta can thiệp vào pháp nên ta tưởng pháp ấy là ngã trong khi tất cả pháp đều là vô ngã, như vậy chính ta tự chuốc lấy não phiền.

Dù đang ở trong thiền viện hay đang ngồi một mình ở một nơi nào đó thì việc lắng nghe lại mình vẫn hoàn toàn như nhau. Dù khi chú tâm vào một đối tượng thiền định hay lắng nhìn một chiếc lá khô rơi nằm trên bãi cỏ thì cũng bắt nguồn từ những tâm sở tầm tứ như nhau. Thế mà chúng ta cứ đặt mình vào một điều kiện lý tưởng rồi mới khởi sự ngắm nhìn.

Lắng nghe hay ngắm nhìn thực tại thì có thể thực hiện bất cứ ở đâu và lúc nào vì tâm và cảnh luôn có mặt tại đây và bây giờ mà không cần chờ đợi một thời gian, thời gian chính là sinh tử.

Khi thầy nói như vậy thì con đừng nghĩ là thầy “không muốn” các con vào hành trong các thiền viện, trừ phi thầy phát hiện một thiền viện nào đó không phản ánh được con đường giác ngộ giải thoát của Chư Phật.

Thầy chỉ nhắc nhở để các con tránh đi theo con đường của một số người trốn chạy chính mình bằng cách đi vào thiền viện. Một số người khác khi vào thiền viện nào thì lệ thuộc phương pháp của thiền viện đó, trở thành chấp thủ pháp môn, chống đối cách hành của thiền viện khác. Hoặc tự mãn với uy tín của vị thiền sư mà mình thọ giáo nên không chịu học hỏi thêm để mở mang tầm nhìn, để thấy chỗ ưu chỗ khuyết trong pháp môn mà mình đang tu học.

Trên đường giác ngộ giải thoát hành giả phải tùy nghi vận dụng pháp hành sao cho phù hợp với từng lúc, từng điều kiện của thực tại biến ảo vô thường. Như một vị lương y khi bắt mạch, phải lắng nghe thật kỹ càng từng trường hợp để định bệnh và kê thuốc cho chính xác. Lắng nghe chính mình còn tinh tế hơn nhiều nên không phải lúc nào cũng chỉ áp dụng một pháp môn để ứng xử với mọi tình huống của thực tại được.

Phiền não là pháp (thực tại), mà pháp là phải thấy ngay (sandiṭṭhiko) không chờ thời gian (akāliko), nên hãy trở về mà nhìn lại (ehipassiko) ngay trong chính nó (opanayiko) thì mỗi người sẽ tự thấy tự biết (paccattam veditabbo viññūhi). Không thể hẹn ngày vào thiền viện, vì đến lúc đó thì những pháp ấy đã lắng sâu vào tận đáy vô thức rồi, đã làm dày thêm vô minh ái dục rồi. Như bệnh thương hàn khi mới trúng gió ngoài biểu không ứng xử kịp thời, đợi đến lúc nhập lý mới đưa vào bệnh viện thì đã vô phương cứu chữa.

Chánh niệm tỉnh giác chỉ để thấy tánh nhưng nó cũng có công năng ngăn ngừa phiền não. Mà ngừa bệnh hơn chữa bệnh nếu ta thường lắng nghe chính mình thì phiền não khó sanh và ta đỡ mất công phấn đấu. Không phấn đấu thì không căng thẳng. Ngược lại, phấn đấu là vô tình dồn nén phiền não vào vô thức, mà con nhớ rằng tất cả impulsion đều phát sinh từ vô thức. Phấn đấu và hẹn lại là hai thái độ sai lầm đối với thực tại vì cả hai đều làm giàu cho vô thức. Cách hữu hiệu nhất là thắp sáng thực tại ngay khi nó hiện khởi thì nó không chìm vào vô thức được nữa.

Những điều thầy nói trên đây thì con đã biết vì ngài Shwe Oo Min cũng dạy như vậy, chỉ có đều là ngài chỉ dạy trong thiền viện, trong bối cảnh của những khoá thiền, còn thầy thì nhấn mạnh nó trong đời sống hàng ngày, do đó chánh niệm tỉnh giác không giới hạn trong phạm vi đối tượng paramattha và bản thân chánh niệm tỉnh giác cũng không cần phải giữ ở một mức độ tiêu chuẩn nào đó. Tất nhiên mục đích tối hậu của chánh niệm tỉnh giác là làm phát sinh trí tuệ để thấy được thực tánh pháp, nhưng đồng thời nó cũng soi sáng mọi phương diện khác của đời sống dù là chân đế hay là tục đế. Khi chánh niệm tỉnh giác soi sáng vào nói năng thì biến nói năng thành chánh ngữ, vào hành động thì biến hành động thành chánh nghiệp, vào sự sinh sống thì biến thành chánh mạng, vào an chỉ tâm hành thì biến thành chánh định, vào thấy tánh thì biến thành chánh kiến, v.v…

Vậy thầy không nói thiền, vì thiền chỉ giới hạn trong thiền định và thiền tuệ, thầy chỉ nói sống đạo, trong sống đạo bao gồm cả thiền và bất cứ pháp môn nào Đức Phật dạy mà ta có thể ứng dụng được một cánh sáng tạo theo điều kiện tự nhiên giữa đời thường. Nếu ta sống đạo trong đời sống hàng ngày được thì khi có điều kiện vào hành trong các thiền viện sẽ dễ dàng đạt được hiệu quả cao hơn.

Thầy chúc con vượt qua mọi trở ngại trên đường tu học. Còn việc giới đàn Tỳ Khưu Ni thì gởi con thư thầy viết cho LP. cũng được, có thắc mắc gì thêm thì thầy góp ý sau.

 

Thầy Viên Minh


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
16/08/2020(Xem: 6414)
Cư sĩ Milton Glaser, người Mỹ, nhà Thiết kế Đồ họa hiện đại, với nhiều công trình nổi tiếng và bền bỉ. Ông đã từ giã trần gian và đã để lại ấn tượng những hình ảnh Phật giáo. Cư sĩ Milton Glaser, người Mỹ, nhà Thiết kế Đồ họa hiện đại đã mãn báo thân, trút hơi thở cuối cùng tại quận Manhattan, thành phố New York, Hoa Kỳ vào ngày 26 tháng 6 vừa qua, vào ngày Sinh nhật lần thứ 91 của ông.
15/08/2020(Xem: 5929)
(Thimphu, Bhutan) – Vào ngày 11 tháng 8 vừa qua, Chính phủ Vương quốc Hy Mã Lạp sơn Bhutan đã áp dụng lệnh phong tỏa toàn quốc đầu tiên kể từ khi đại dịch Virus corona tấn công Vương quốc Phật giáo này. Chính phủ Vương quốc Phật giáo này đã ban hành lệnh cách ly cho khoảng 750.000 người dân, các cơ quan nhà nước cũng đề nghị đóng cửa tất cả các trường học, cơ sở đào tạo và các cửa hàng kinh doanh; hoãn các kỳ thi và không rời địa bàn sinh sống trong thời gian này.
15/08/2020(Xem: 6174)
Sự từ biệt trần gian Ta bà của Cư sĩ Steven D. Goodman (1946-2020) là vô cùng kính tiếc, một sự mất mát cho việc nghiên cứu Phật giáo Tây Tạng tại phương Tây. Cư sĩ Steven D. Goodman, Giáo sư, Tác giả và Dịch giả nổi tiếng bởi các tác phẩm kinh điển Phật giáo Tây Tạng, đã an nhiên trút hơi thở cuối cùng tại tư gia và về cõi Phật vào ngày 03 tháng 8 năm 2020, Oaklan, Hoa Kỳ. Hưởng thọ 75 tuổi.
14/08/2020(Xem: 7633)
Phần này bàn về cách dùng tiền quí, cheo, bài ca dao “đi chợ tính tiền” và các cách tính tiền thời trước và thời LM de Rhodes, dựa vào tự điển Việt Bồ La và một số tài liệu chữ Nôm/chữ quốc ngữ. Đây là những chủ đề có rất ít người đề cập đến. Tài liệu tham khảo chính của bài viết này là bốn tác phẩm của LM de Rhodes soạn: (a) cuốn Phép Giảng Tám Ngày (viết tắt là PGTN), (b) Bản Báo Cáo vắn tắt về tiếng An Nam hay Đông Kinh (viết tắt là BBC), (c) Lịch Sử Vương Quốc Đàng Ngoài 1627-1646 và (d) từ điển Annam-Lusitan-Latinh (thường gọi là Việt-Bồ-La, viết tắt là VBL) có thể tra từ điển này trên mạng, như trang này chẳng hạn http://books.google.fr/books?id=uGhkAAAAMAAJ&printsec=frontcover#v=onepage&q&f=false .
11/08/2020(Xem: 9737)
Ai đã truyền Việt Nam Phật Giáo qua Trung Quốc: Khương Tăng Hội, người Việt Nam. Vào năm nào: năm 247 tây lịch. Nơi nào tại Trung Quốc: Kiến Nghiệp, nay là Nam Kinh. Chùa đầu tiên được xây dựng tại Kiến Nghiệp là chùa nào: Do Khương Tăng Hội xây dựng chùa Kiến Sơ tại Kiến Nghiệp, Nam Kinh, hiện nay, 2020, vẫn còn. Trưỡng lão Hòa Thượng Thích Trí Quảng, Đệ Nhất Phó Pháp Chủ Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam đã đến thăm chùa đó cách nay mấy năm và đã xác nhận với tôi tại chùa Huê Nghiêm của Ngài tại quận hai, thành phố Hồ Chí Minh vào tháng 7 năm 2017. Khương Tăng Hội mất năm 280. Nghĩa là Ngài hành đạo tại Trung Quốc được 33 năm. Trong khi đó Bồ Đề Đạt Ma đến Trung Quốc năm 520, nghĩa là sau Khương Tăng Hội 273 năm.
11/08/2020(Xem: 5545)
Được sự thương tưởng và hỗ trợ của chư vị chúng con, chúng tôi vừa thực hiện xong 10 giếng cần giục (Well hand-pump) cho những ngôi làng nghèo lân cận khu vực Bồ Đề Đạo Tràng & Nalanda tiểu bang Bihar India. Đây là Public Well Hand-pump nên cả làng có thể xài chung, người dân nghèo bớt đi rất nhiều nỗi nhọc nhằn vì phải đi lấy nước ngoài sông xa. Kính mời quí vị xem qua một số hình ảnh tường trình.
10/08/2020(Xem: 7283)
Đa số chúng ta, những người có duyên với Phật Giáo, hầu hết đã nghe nói đến, không nhiều thì ít, rằng Phật thuyết pháp, Tổ sư thuyết pháp, Pháp sư thuyết pháp, Hòa thượng hay Thượng tọa thuyết pháp, v.v…, nhưng ít ai nghe nói chim muôn thuyết pháp, phải không? Vì chúng ta thiết nghĩ rằng các loài động vật hay thực vật thì khác với loài người, không có Phật Pháp, không thể nghe hay thuyết Phật pháp, do đó, nên chúng ta có thể nghĩ rằng làm gì có chuyện chim muôn, cây cỏ, v.v… có thể thuyết Phật pháp bằng ngôn ngữ của chúng.
09/08/2020(Xem: 7649)
Sáng nay vừa thức dậy, nhìn ra ngoài bầu trời trong thật đẹp, chim chóc hót ca vang, ríu rít gọi nhau nghe sao mà thanh bình quá, tiếng chim hót mà con rất ưa thích nghe từ thuở còn ấu thơ mỗi khi bình minh sắp trổi dậy cho một ngày mới. Hôm nay 28.6.2020 sinh nhật lần thứ 71 của Thầy, con xin kính đọc bài thơ của nhà thơ Hoàng Phong Linh tức ông Võ Đại Tôn, 1 chiến sỹ yêu nước, yêu Đạo, yêu Đời luôn dâng hiến đời mình cho Tổ Quốc kính mừng sinh nhật Thầy:
09/08/2020(Xem: 6710)
Đức Đạt Lai Lạt Ma Đời Thứ 14, vị lãnh đạo tinh thần của Phật Giáo Tây Tạng, đã sống lưu vong tại Ấn Độ kể từ năm 1959 khi chế độ Cộng Sản tại Trung Quốc xua quân xâm chiếm Tây Tạng, nhiều lần lên tiếng trước công luận thế giới về chính sách tiêu diệt văn hóa truyền thống Tây Tạng của Bắc Kinh. Thật vậy, TQ đã và đang thực hiện việc tiêu diệt có hệ thống di sản văn hóa của Tây Tạng với sự phá hủy các truyền thống Phật Giáo và tôn giáo, hệ thống giáo dục, làm đổ vỡ xã hội, gây cảnh vô luật pháp, bất bao dung xã hội, lòng tham không kiểm soát và sự gia tăng cao độ việc buôn bán tình dục và nạn nghiện rượu tại Tây Tạng, theo một phúc trình được đăng trên trang mạng toàn cầu www.thehindubusinessline.com cho biết.
08/08/2020(Xem: 6663)
Ở đời có những cuộc từ giã hùng tráng gây ấn tượng như tạo nguồn cảm hứng sâu đậm trong lòng người qua lịch sử đương thời và mai sau. Điều đó đủ chứng minh tiền nhân có lý do xác đáng để khước từ quá khứ tù hãm, nhắm hướng tương lai không chỉ cho riêng mình mà còn nghĩ tới đồng loại và chúng sanh. Những cuộc từ giã hay nói chính xác hơn là những cuộc vượt thoát can trường mới diễn tả đúng ngữ nghĩa và ngữ cảnh của mỗi sự kiện mà tôi cho rằng ở trong ba thời kỳ: cổ đại, trung hưng và hiện đại.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]