Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

13. Chí nguyện cố gắng toàn lực: Bước thứ sáu

28/05/201223:50(Xem: 8659)
13. Chí nguyện cố gắng toàn lực: Bước thứ sáu
CHÍ NGUYỆN CỐ GẮNG TOÀN LỰC
Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma
Anh dịch: Jeffrey Hopkins
Chuyển ngữ: Tuệ Uyển


Bướcthứ sáu:
CHÍNGUYỆN CỐ GẮNG TOÀN LỰC


Nếu một giáo huấnđược nắm bắt và được biết, tất cả mọi lời dạy của ta sẽ ở trong lòng bàn tay củacác con.
Giáo huấn này là gì? Đấy làlòng vị tha.
- ĐỨC PHẬT

Chức năng đặctrưng của đại bi là gì? Như Liên Hoa Giới[1]nói trong Những Giai Tầng Thiền Quán:

Khi chúng ta cảmthấy bi mẫn tự động phát sinh nguyện ước tiêu trừ hoàn toàn khổ đau của tất cảchúng sinh - giống như nguyện ước của một bà mẹ làm vơi bớt nỗi khổ đau vì bệnhtật của đứa con yêu mến ngọt ngào của bà - thế thì lòng bi mẫn của chúng ta làhoàn toàn và do thế được gọi là đại bi[2].

Tươngtự thế, khi từ trong chiều sâu của trái tim chúng ta tự động phát sinh từ áinguyện ước để cùng dự với tất cả chúng sinh trong hạnh phúc chân thật và miênviễn, đây là đại từ[3]. Đối với một bà mẹ mà đứa con yêu của bà đangkhổ đau vì bệnh tật, bất chấp bà đang làm gì, bà ấy - không cần nỗ lực nào - cómột cảm giác đau xót vì rắc rối của đứa con, tự động phát sinh nguyện ước đứacon của bà được thoát khỏi tình cảnh ấy và ở trong một tình trạng hạnhphúc. Khi chúng ta có một cảm giác sâuxa, lập tức về từ ái, và bi mẫn cho tất cả chúng sinh. Đây là phạm vi của việc phát sinh đại từ và đạibi.

Đãtrau dồi ba trình độ của khuynh hướng từ ái và bi mẫn và cảm thấy tác động trọnvẹn với những nguyện ước ấy, chúng ta đã sẵn sàng để thực hành bước thứ sáu,lòng vị tha phi thường kêu gọi cho một chí nguyện cố gắng hoàn toàn về phầnchúng ta. Đây là quyết định chân thànhmà trong ấy chúng ta hứa nguyện:

Ngay cả nếu tôiphải làm việc này một mình, tôi cũng sẽ giải thoát tất cả chúng sinh khỏi khổđau và nguyên nhân của đau khổ, và cùng vui với tất cả chúng sinh trong hạnhphúc và nguyên nhân của chúng.

Ýchí đảm đương trách nhiệm đơn độc là một ý nghĩa cao thượng đặc biệt của lòng vịtha. Thực tế, không ai có thể làm điềunày một mình cả, nhưng chúng ta đang tự nguyện trong một trách nhiệm trọn vẹnvì sự cát tường của người khác.

Nhữngnguyên nhân thuận lợi cho việc đảm đương gánh nặng này là sự trau dồi trước đâycủa chúng ta về từ ái và bi mẫn, điều kiện thuận lợi là thân chứng về sự kiện rằngmỗi người có Phật tính, rằng những cảm xúc phiền não tâm của mỗi một chúngsinh không tồn tại mãi mãi trong tâm màcó thể tiêu trừ được. Như tôi đã bàn luậntrước đây, những cảm xúc rắc rối có thể tách rời khỏi tâm, có nghĩa là giác ngộcó thể đạt được.

Nhậnbiết về những sự kiện căn bản này làm hiện thực việc đảm đương trách nhiệm để hỗtrợ chúng sinh trong một mức độ rộng lớn.Vì chúng ta thấu hiểu rằng tất cả những chướng ngại phiền não có thể đượcloại trừ, nên thật thực tiển để quyết định hỗtrợ tất chúng sinh làm điềunày. Với những sự thực chứng này chúngta có thể thực hiện quyết định vị tha này từ trong chiều sâu của trái tim vàtâm thức, là điều nhằm để mở ra con đường cho sự phát triển tâm linh trọn vẹn.

Nếuchúng ta cảm thấy rằng một số chúng sinh nào đó có thể đạt đến giác ngộ, quyếtđịnh vị tha để giúp đở sẽ khó khăn. Đâylà vấn đề tuệ trí hoạt động như thế nào đểcộng sự trong việc phát triển từ ái và bi mẫn; dường như rằng khổ đau cóthể được tiêu trừ, chúng ta xúc động từ tâm khảm về hoàn cảnh của chúng sinh, việc phát triển mộtquyết tâm để làm điều gì đó về vấn đề này. Nếu chúng ta không thể làm bất cứ việc gì về điều này một quyết định nhưvậy là không thể có. Thí dụ, tôi đã thực hiện dự phòng cả ở đây,Dharamsala, và ở Ladakh để một số con cừu không bị giết, nhưng tôi không thểcung ứng đất đai được bảo vệ cho tất cả những con cừu trong những vùng này đểrong ruổi một cách tự do, thì tôi chỉ có thể xúc động bởi lòng thương hại cho tất cả những con cừu ấy.

Khichúng ta nhận ra rằng có những kỹ năng mà nhờ đó chúng sinh có thể được bảo vệkhỏi khổ đau, điều này kích thích một mức độ rộng lớn của từ ái và bi mẫn thựctiễn. Trong cách này, tuệ trí hỗtrợ quyếtđịnh của chính chúng ta để hành động thoát khỏi vòng xoay của khổ đau và đểgiúp những người khác làm như vậy.

THIỀN QUÁN

Quánchiếu:

1- Những cảm xúcsầu khổ không lưu trú trong bản chất của tâm do thế chúng có thể được loại trừ.

2- Vì những cảmxúc sầu khổ có thể được tách rời khỏi tâm, thật thực tiễn để tôi hành động đạtđến giác ngộ và hỗ trợ người khác cùng làm như vậy.

3- Quyết tâm:

Ngay cả nếu tôiphải làm việc này một mình, tôi cũng sẽ giải thoát tất cả chúng sinh khỏi khổđau và nguyên nhân của đau khổ, và cùng vui với tất cả chúng sinh trong hạnhphúc và nguyên nhân của chúng.

Rèn luyện điềunày cho đến khi nó trở thành động cơ tự nhiên của chúng ta. Đây là một lòng can đảm chân thật có thể đưachúng ta qua tất cả nghịch cảnh.

Nguyêntác: The Sixth Step: Total Commitment
ẨnTâm Lộ ngày 17-3-2012


[1]Kamalasila

[2] Binăng bạc nhất thiết chúng sinh chi khổ

[3] Từnăng dữ nhất thiết chúng sinh chi lạc

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
15/05/2021(Xem: 4931)
Không nói được tiếng Tây Tạng và chưa bao giờ dịch tác phẩm nào nhưng Evans-Wentz được biết đến như một dịch giả xuất sắc các văn bản tiếng Tây Tạng quan trọng, đặc biệt là cuốn Tử Thư Tây Tạng ấn bản năm 1927. Đây là cuốn sách đầu tiên về Phật giáo Tây Tạng mà người Tây Phương đặc biệt quan tâm. Ông Roger Corless, giáo sư Tôn Giáo Học tại đại học Duke cho biết: “Ông Evans-Wentz không tự cho mình là dịch giả của tác phẩm này nhưng ông đã vô tình tiết lộ đôi điều chính ông là dịch giả.”
15/05/2021(Xem: 5053)
Ngay sau tác phẩm Mối tơ vương của Huyền Trân Công Chúa, người đọc lại được đón đọc Vua Là Phật - Phật Là Vua của nhà văn Thích Như Điển. Đây là cuốn sách thứ hai về đề tài lịch sử ở thời (kỳ) đầu nhà Trần mà tôi đã được đọc. Có thể nói, đây là giai đoạn xây dựng đất nước, và chống giặc ngoại xâm oanh liệt nhất của lịch sử dân tộc. Cũng như Mối tơ vương của Huyền Trân Công Chúa, tác phẩm Vua Là Phật - Phật Là Vua, nhà văn Thích Như Điển vẫn cho đây là cuốn tiểu thuyết phóng tác lịch sử. Nhưng với tôi, không hẳn như vậy. Bởi, tuy có một số chi tiết, hình ảnh tưởng tượng, song dường như rất ít ngôn ngữ, tính đối thoại của tiểu thuyết, làm cho lời văn chậm. Do đó, tôi nghiêng về phần nghiên cứu, biên khảo, cùng sự liên tưởng một cách khoa học để soi rọi những vấn đề lịch sử bấy lâu còn chìm trong bóng tối của nhà văn thì đúng hơn. Ở đây ngoài thủ pháp trong nghệ thuật văn chương, rõ ràng ta còn thấy giá trị lịch sử và hiện thực thông qua sự nhận định, phân tích rất công phu của
15/05/2021(Xem: 4427)
Ấm ma là hiện tượng hóa ngôn ngữ. Trong kinh Lăng Nghiêm nói đến 50 ấm ma là nói đến biến tướng của nghiệp thức, của các kiết sử thông qua lục căn từng giao tiếp với lục trần trên nền tảng “ sắc-thọ-tưởng-hành-thức”.
15/05/2021(Xem: 4088)
Đọc xong tác phẩm nầy trong một tuần lễ với 362 trang khổ A5, do Ananda Viet Foundation xuất bản năm 2017, Bodhi Media tái xuất bản tại Hoa Kỳ trong năm 2020 và tôi bắt đầu viết về Tác phẩm và Tác giả để gửi đến quý độc giả khắp nơi, nếu ai chưa có duyên đọc đến. Nhận xét chung của tôi là quá hay, quá tuyệt vời ở nhiều phương diện. Phần giới thiệu của Đạo hữu Nguyên Giác gần như là điểm sách về nhiều bài và nhiều chương quan trọng trong sách rồi, nên tôi không lặp lại nữa. Phần lời bạt của Đạo hữu Trần Kiêm Đoàn cũng đã viết rất rõ về sự hình thành của Gia Đình Phật Tử Việt Nam ở trong nước, từ khi thành lập cho đến năm 1975 và Ông Đoàn cũng đã tán dương tuổi trẻ Việt Nam cũng như tinh thần học Phật, tu Phật và vận dụng Phậ
10/05/2021(Xem: 4683)
Chỉ có bốn chữ mà hàm chứa một triết lý thâm sâu ! Chỉ có bốn chữ mà sao chúng sanh vẫn không thực hành được để thoát khỏi sự khổ đau ? Nhưng cũng chỉ bốn chữ này có thể giúp chúng sinh phá được bức màn vô minh, đến được bến bờ giác ngộ, thoát vòng sinh tử !
08/05/2021(Xem: 4147)
Chủ đề bài này là nói về tỉnh thức với tâm không biết. Như thế, nghĩa là những gì rất mực mênh mông, vì cái biết luôn luôn là có hạn, và cái không biết luôn luôn là cái gì của vô cùng tận. Cũng là một cách chúng ta tới với thế giới này như một hài nhi, rất mực ngây thơ với mọi thứ trên đời. Và vì, bài này được viết trong một tỉnh thức với tâm không biết, tác giả không đại diện cho bất kỳ một thẩm quyền nào. Độc giả được mời gọi tự nhìn về thế giới trong và ngoài với một tâm không biết, nơi dứt bặt tất cả những tư lường của vô lượng những ngày hôm qua, nơi vắng lặng tất cả những mưu tính cho vô lượng những ngày mai, và là nơi chảy xiết không gì để nắm giữ của vô lượng khoảnh khắc hôm nay. Khi tỉnh thức với tâm không biết, cả ba thời quá, hiện, vị lai sẽ được hiển lộ ra rỗng rang tịch lặng như thế. Đó cũng là chỗ bà già bán bánh dẫn Kinh Kim Cang ra hỏi ngài Đức Sơn về tâm của ba thời.
04/05/2021(Xem: 3582)
Một khi Đức Đạt Lai Lạt Ma rời Tây Tạng, ngài sẽ phải đối diện với nhiệm vụ khó khăn về việc nói với thế giới những gì đã xảy ra ở quê hương ngài và cố gắng để có được sự giúp đở cho người dân của ngài. Ngài cũng phải chạm trán với sự tuyên truyền của truyền thông Tàu Cộng rằng ngài đã bị bắt cóc. Tuy nhiên, nhu cầu thiết yếu nhất là để bảo đảm nhà ở và thực phẩm cho những người Tây Tạng đã đi theo ngài lưu vong. Ngài đã hướng đến chính phủ Ấn Độ, và họ đã không làm ngài thất vọng. Trong thực tế, Ấn Độ cuối cùng đã tiếp nhận hơn một trăm nghìn người tị nạn, cung cấp chỗ ở, và nuôi dưỡng họ, cho họ làm việc, và thiết lập những ngôi trường đặc biệt cho trẻ em Tây Tạng. Những tu viện Phật giáo Tây Tạng cũng được xây dựng ở Ấn Độ và Nepal.
30/04/2021(Xem: 6863)
Thưa Tôi. Hôm nay là ngày sinh nhật của Tôi, xin được phép thoát ra khỏi cái tôi để nhìn về tôi mà phán xét và đưa ra cảm nghĩ. Hình dạng tôi đã già rồi, tóc đã bạc hết cả đầu. Tôi đã trải qua một thời gian dài sinh sống làm việc và cuối đời nghỉ hưu. Tôi đã bắt đầu thấm thía cái vô thường của thời gian mang lại. Tôi cũng đã thấm thía cái sức khỏe đã đi xuống nhanh hơn đi lên. Tôi cũng đã thấm thía tình đời bạc bẽo cũng như tình cảm (Thọ) là nỗi khổ đau của nhân sinh. Tôi cũng đã hiểu rõ thế nào là ý nghĩa đích thực của cuộc sống, đó là bất khả tương nghị không thể thốt lên thành lời. Chỉ có im lặng là đúng nghĩa nhất. Ngày xưa khi lục tổ Huệ Năng của Thiền tông chạy trốn mang theo y bát thì thượng tọa Minh rượt đuổi theo để giết lấy lại. Đến khi gặp mặt thì lục tổ mang y bát ra để trên tảng đá rồi núp dưới tảng đá bảo thượng tọa Minh hãy lấy y bát đi mà tha chết cho người. Thượng tọa Mình lấy bát lên, nhắc không lên nổi vì nó quá nặng bèn sợ hãi mà quỳ xuống xin lục tổ tha c
30/04/2021(Xem: 6934)
Thiền Uyển Tập Anh chép Đại sư Khuông Việt Ngô Chân Lưu (933 – 1011) tu ở chùa Phật Đà, Thường Lạc nay là chùa Đại Bi núi Vệ Linh Sóc Sơn, Hà Nội. Ngài thuộc thế hệ thứ 4 Thiền phái Vô Ngôn Thông. Ngài người hương Cát Lợi huyện Thường Lạc, nay thuộc huyện Sóc Sơn, Hà Nội, thuộc dòng dõi Ngô Thuận Đế (Ngô Quyền). Theo Phả hệ họ Ngô Việt Nam, Thiền sư Ngô Chân Lưu tên huý là Xương Tỷ, anh trai Thái tử - Sứ quân Ngô Xương Xý, con Thiên Sách Vương Ngô Xương Ngập, cháu đích tôn của Ngô Vương Quyền. Ngài dáng mạo khôi ngô tuấn tú, tánh tình phóng khoáng chí khí cao xa, có duyên với cửa Thiền từ năm 11 tuổi.
27/04/2021(Xem: 5034)
Tánh Không ra đời một thời gian dài sau khi đức Phật Nhập diệt do Bồ tát Long Thọ xiển dương qua Trung Quán Luận. Mặc dầu khi còn tại thế đức Phật có nói về Tánh Không qua kinh A hàm và Nikaya. Nơi đây Phật có nói về tánh xuất gia của hành giả đi tu. Hạng người tâm xuất gia mà thân không xuất gia thì gọi là cư sĩ. Và hạng người tâm và thân xuất gia thì gọi là tỳ kheo. Tánh Không cũng có hiện hữu trong kinh Tiểu không bộ kinh trung bộ. Phật có dạy: nầy Ananda, Ta nhờ ẩn trú Không nên nay ẩn trú rất nhiều. Kế tiếp Phật có dạy trong kinh A hàm về các pháp giả hợp vô thường như những bọt nước trôi trên sông: sự trống không của bọt nước.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]