Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

01. Quan điểm của tôi

04/01/201202:51(Xem: 8132)
01. Quan điểm của tôi

RỘNG MỞ TỪ ÁI:
QUAN ĐIỂM CỦA TÔI

Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma
Anh dịch: Jeffrey Hopkins, Ph. D.
Chuyển ngữ: Tuệ Uyển - 23/09/2011

LỜINGƯỜI DỊCH

Cổ Đức có dạy:
"Từnăng dữ nhất thiết chúng sanh chi lạc
Binăng bạt nhất thiết chúng sanh chi khổ ".
Tạm dịch:
Lòngthương yêu có khả năng đem đến cho tất cả chúng sanh an vui,
Lòngthương xót có khả năng cứu tất cả chúng sanh thoát khổ.
PhậtGiáo Tây Tạng khi dịch ra Anh ngữ thường dùng:
-Love để dịch cho chữ Từ hay từ ái và cóđịnh nghĩa là nguyện cho mọi chúng sinhđược hạnh phúc và có nguyên nhân của hạnh phúc.
-Compassion để dịch chữ Bi hay bi mẫn (hay great love: Đại bi) và có định nghĩa là nguyện cho mọichúng sinh thoát khổ và hết những nguyên nhân của khổ.

ĐứcĐạt Lai Lạt Ma trong một số bài viết cũng nói rằng, không phải nói đến từ áihay bi mẫn là chúng ta phải có khả năng để ban vui hay cứu khổ mà trước hết đấylà sự phát nguyện, mong ước của chúng ta cho mọi chúng sinh được có niềm vui vàhết khổ. Quả vậy, nếu chúng ta nghĩ đếnban vui cứu khổ mà khi chúng ta chưa có khả năng thần thông tự tại như những vịPhật hay Bồ tát thì quả là ngoài sức tưởng tượng và chúng ta không thể và khôngdám nghĩ đến, và chúng ta cảm thấy thối chí. Tuệ Uyển nghĩ như thế. Nhưng thayvì thế, như lời dạy của Đức Đạt Lai Lạt Ma, chúng ta trước hết phải có tấm lòngrộng rãi như thế, phải phát nguyện từ ái và bi mẫn nguyện cho mọi người được hếtkhổ, được có niềm vui, được có nguyên nhân của niềm vui, được hết những nguyênnhân của khổ. Với lời nguyện ước, mongmuốn này chắc ai cũng có thể làm được.

Dĩnhiên nói đến từ bi là nói đến lòng thương yêu không phân biệt kẻ oán, bạn hữuhay người dưng, nhưng thật khó mà nghĩ đến người làm tổn hại chúng ta, ngườichúng ta không ưa với tâm bình đẳng như vậy, nhưng như Bồ tát Tokmay Sangponói, nếu chúng ta không thuần hóa kẻ thù nội tại mà lại muốn thuần hóa kẻ thùngoại tại thì kẻ oán lại càng tăng, thế nên việc phát lời nguyện ước từ ái vàbi mẫn hay nguyện cho mọi người đều khỏi khổ, hết nguyên nhân của khổ, được hạnhphúc và có nguyên nhân của hạnh phúc là cách hay nhất để rộng mở cõi lòng củachúng ta, thuần hóa kẻ thù nội tại của chúng ta, dù thực tế chúng ta chưa hànhđộng gì cả.

Trongnhững buổi lễ của Phật Giáo, chúng ta thường có một phút nhập từ bi quán, nhưngchỉ một phút thôi và lâu lâu một lần như vậy thì thật khó mà thâm nhập được từbi và khó mà rộng mở cõi lòng, khó mà thuần hóa kẻ thù nội tại. Nhưng nếu chúng ta thường xuyên phát nguyện từái và bi mấn, hay luôn luôn giữ lòng từ bi, chắc chắn kẻ thù nội tại sẽ khuấtphục trước năng lực của từ bi. Các đạo sư Tây Tạng, Đức Đạt Lai Lạt Ma, hay Thiềnsư Nhất Hạnh thường nói hãy gởi những thông điệp thương yêu hay từ bi vào khônggian, năng lực của từ bi của chúng ta, của càng nhiều người sẽ làm dịu "thếgian nóng bức" này, dịu những nổi thù hận trong nghiệp chướng của chúngta. Phát nguyện từ ái bi mẫn là thiết thựclàm việc này, là thiết thực biểu lộ bản chất của Đạo Phật, đạo của từ bi.

Thức dậy miệngmỉm cười,
Hăm bốn giờ tinhkhôi,
Xin nguyện sốngtrọn vẹn
Mắt thương nhìncuộc đời.
Nammô A Di Đà Phật

TuệUyển

QUAN ĐIỂM CỦA TÔI

love-dalailama001Nếu kẻ thù nội tạilà thù hận không được thuần hóa,
Khi người ta cố gắng để thuần hóa kẻ thù ngoạitại, kẻ thù lại gia tăng.
Do vậy, sự thựctập của người thông tuệ là tự thuần hóa chính họ.
Bằng phương tiệnnhững năng lực của từ ái và bi mẫn.
-BỒ TÁT TOKMAY SANGPO

Khi tôi nói về từ ái và bi mẫn, tôi không nói như mộtPhật tử, cũng không như một người Tây Tạng, cũng không phải như một Đạt Lai LạtMa. Tôi thực hiện điều này như một conngười nói với những người khác. Tôi hy vọngrằng quý vị tại thời điểm này sẽ nghĩ về chính quý vị như một con người thay vìlà một người Mỹ châu, Á châu, Âu châu, Phi châu, hay thành viên của một xứ sở đặcthù nào đấy. Những sự trung thành này làthứ yếu. Nếu quý vị và tôi thấy một nềntảng chung như những con người, chúng ta sẽ giao tiếp trên cấp độ căn bảnnày. Nếu tôi nói, "tôi là một thầytu", hay "tôi là một Phật tử", những thứ này, trong việc so sánh đến bản chất như mộtcon người, là tạm thời. Là con người làcăn bản, nền tảng mà từ đấy tất cả chúng ta phát sinh. Chúng ta sinh ra như một con người, và điều ấykhông thay đổi cho đến khi chết. Tất cảnhững thứ khác - cho dù chúng ta có học vấn hay không học vấn, già hay trẻ,giàu hay nghèo - là thứ yếu.

GIẢIQUYẾT RẮC RỐI

Trongnhững thành phố lớn, trong nông trại,trong những vùng xa xôi hẻo lánh, khắp các vùng nông thôn, con người đang dichuyển một cách bận rộn. Tại sao? Tất cảchúng ta đều bị thúc đẩy bởi một khát vọng làm cho chính chúng ta hạnhphúc. Làm như thế là đúng. Tuy nhiên, chúng ta phải luôn nhớ trong tâm rằngliên hệ quá nhiều với những khía cạnhnông cạn của đời sống sẽ không giải quyết những vấn đề lớn hơn bất toại ý củachúng ta. Từ ái, bi mẫn, và quan tâm chokẻ khác là những cội nguồn hạnh phúc thật sự.Với những thứ này phong phú, chúng ta sẽ không bị quấy rầy bởi ngay cảnhững hoàn cảnh khó chịu nhất. Tuynhiên, nếu chúng ta nuôi dưỡng thù hận,chúng ta sẽ không hạnh phúc ngay cả trong cảnh giàu có xa hoa. Vì thế, nếu chúng ta thật sự muốn hạnh phúc,chúng ta phải mở rộng môi trường của từ ái yêu thương. Điều này là cả tư duy tôn giáo và cảm nhậncăn bản thông thường.

Sânhận không thể vượt thắng bằng sân hận. Nếungười ta biểu lộ sân hận đến chúng ta, và chúng ta thể hiện giận dữ trở lại, kếtquả là một thảm họa. Trái lại, nếu chúngta kiềm chế sự sân hận của mình và biểu lộ sự ngược lại của nó - từ ái, bi mẫn,bao dung, và kiên nhẫn - thế thì không chỉ chúng ta duy trì trong hòa bình mà sựgiận dữ của người khác cũng sẽ dần dầngiảm bớt. Không ai có thể tranh luận vớisự thật rằng trong sự hiện diện của sân hận, hòa bình là không thể có. Chỉ qua ân cần và từ ái, niềm hòa bình tâm hồnmới có thể đạt được.

Chỉcó con người mới có thể phán xét và suy luận; chúng ta thấu hiểu những hậu quả vànghĩ về lâu về dài. Cũng đúng rằng conngười có thể phát triển lòng từ ái yêu thương vô biên, trái lại đối với kiến thứctối đa của con người thì các thú vật chỉ có những thình thức hạn chế củatình cảmvà yêu thương. Tuy nhiên, khi con ngườitrở nên giận dữ, tất cả khả năng này bị mất đi. Không kẻ thù nào trang bị với vũ khí thôi có thể tước bỏ những phẩm chất này, nhưng sân hận cóthể làm việc ấy. Nó là kẻ tàn phá.

Nếuchúng ta nhìn một cách sâu sắc vào những thứ như vậy, những dấu vết của cáchành động của chúng ta có thể tìm thấy trong tâm thức. Những thái độ tựchuốc lấy thất bại, tự tổnthương, tự hại sinh khởi không phải theo ý chí riêng của họ mà do si mê ám tối. Thành công cũng thế, được thấy trong chính họ. Xuất phát từ kỷluật tự giác, tự tỉnh thức,và việc nhận ra rõ ràng những nhược điểm của sân hận và những ảnh hưởng tích cựccủa ân cần sẽ đi đến hòa bình. Thí dụ,vào lúc hiện tại, chúng ta có thể là một người phát sinh cáu gắt dễ dàng. Tuy nhiên, với sự thấu hiểu rõ ràng và tỉnhthức, sự tức tối của chúng ta có thể trước nhất bị xói mòn, và rồi bị thay thế. Mục tiêu của quyển sách này là để chuẩn bị nềntảng cho sự thông hiểu ấy mà từ ấy lòng yêu thương chân chính hay từ ái có thểsinh trưởng. Chúng ta cần trau dồi tâmthức.

Tấtcả các tôn giáo đều dạy một thông điệp về từ ái, bi mẫn, chân thành và trung thực. Mỗi hệ thống tìm kiếm con đường riêng của nóđể cải thiện đời sống cho tất cả chúng ta. Tuy thế, nếu chúng ta nhấn mạnh quá nhiều bàotriết lý, tôn giáo hay lý thuyết của chính chúng ta, trở nên quá dính mắc, chấptrước với nó, và cố gắng để áp đặt nó trên những người khác, kết quả sẽ là rắcrối. Một cách căn bản, tất cả các bậc thầyvĩ đại kể cả Đức Thế Tôn Thích Ca của Phật Giáo, Chúa Giê-Su của Ki Tô Giáo,Muhammad của Hồi Giáo, và Moses của Do Thái Giáo được thúc đẩy bởi một niềm khao khát giúp đở môn đồ của các ngài. Các ngài không tìm cầu để có được bất cứ điềugì đấy cho chính các ngài, cũng không để tạo thêm rắc rối cho thế giới.

Tôngiáo có thể đồng nghĩa với những vấn đề triết lý sâu sắc, nhưng từ ái và bi mẫnlà trái tim của tôn giáo. Do thế, trongquyển sách này, tôi sẽ diễn tả việc thực hành từ ái mà tôi cũng làm như thế. Trong kinh nghiệm việc thực hành từ ái đem đếnhòa bình của tâm hồn cho chính tôi và hổ trợ người khác. Những người vị kỷ ngu ngơ luôn luôn nghĩ vềchính họ, và kết quả luôn luôn là tiêu cực. Những người thông tuệ nghĩ về những người khác, giúp đở họ tối đa mà họcó thể, và kết quả là hạnh phúc. Từ áivà bi mẫn lợi lạc cho chính chúng ta và người khác. Qua lòng ân cần đối với người khác, tâm tư vàtrái tim chúng ta sẽ rộng mở đến hòa bình.

Mởrộng môi trường nội tại này dến những cộng đồng rộng lớn hơn chung quanh chúngta sẽ đem đến hòa hiệp, thống nhất, và hợp tác; mở rộng hòa bình xa hơn đến nhữngquốc gia và rồi thì đến thế giới sẽ mang đến lòng tin hỗ tương, tôn trọng qua lại,sự giao tiếp chân thành, và cuối cùng là những nổ lực hòa nhập thành công để giảiquyết những rắc rối của thế giới. Tất cảnhững điều này là có thể. Nhưng trước nhấtchúng ta phải thay đổi chính mình.

Mỗichúng ta có trách nhiệm đối với toàn thể nhân loại. Chúng ta cần nghĩ về mỗi người chúng ta nhưnhững người anh chị em thật sự, và quan tâm đến quyền lợi của mỗi chúngta. Chúng ta phải tìm cách giảm đi nổikhổ đau của kẻ khác. Hơn là hành động chỉđể đạt đến sự giàu sang, chúng ta cần làm điều gì đấy đầy đủ ý nghĩa, điều gì đấymột cách nghiêm chỉnh hướng trực tiếp đến lợi ích của toàn thể nhân loại.

Đượcthúc đẩy bởi bi mẫn và từ ái, tôn trọng những quyền của kẻ khác - điều này thậtsự là tôn giáo. Mặc áo tu sĩ nói về Thượngđế nhưng suy nghĩ một cách vị kỷ thì không phải là một hành vi tôn giáo. Trái lại, một nhà chính trị hay luật sư với sựquan tâm thật sự cho nhân loại, những người cáng đáng những hành động làm lợiích cho người khác thật sự là thực hành tôn giáo. Mục tiêu phải là phụng sự cho kẻ khác, chứkhông phải khống chế thiên hạ. Những aithực hành từ ái thông tuệ, như Đại hành giả Ấn Độ Long Thọ đã nói trong TràngHoa Quý Báu rằng:

Đã phân tích trọnvẹn
Tất cả nhữnghành vi của thân thể, lời nói và tâm ý,
Những ai nhận ranhững gì lợi ích cho tự thân và người khác
Luôn luôn thựchiện những điều này là thông tuệ.

Mộthành vi tôn giáo là được thực hiện ra với động cơ tốt lành, với tư tưởng chânthành vì lợi ích của người khác. Tôngiáo là ở đây và bây giờ trong đời sống hàng ngày của chúng ta. Nếu chúng ta hướngdẫn đời sống ấy vì lợi ích của thế giới, thì đây là dấu ấn xác nhận một đời sốngtôn giáo.

Đâylà tôn giáo đơn giản của tôi. Không cầnThánh đường, Phật đường. Không cần nhữngtriết lý phức tạp. Tâm thức của chínhchúng ta, trái tim của chính chúng ta, là đền đài; triết lý của chúng ta đơn giảnlà ân cần.

Nguyêntác: MyOutlooktrích từ quyển How toExpand Love

ẨnTâm Lộ ngày 24/09/2011

Source: thuvienhoasen

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
07/01/2021(Xem: 5521)
Một khuôn mặt trong một tấm gương xuất hiện là một khuôn mặt, nhưng thế nào đi nữa hình ảnh đấy không là một khuôn mặt thật sự; đấy là từ những quan điểm trống rỗng về sự hiện hữu của một khuôn mặt. Giống như thế, một nhà huyển thuật có thể gợi lên những ảo ảnh dường như là những thứ thật sự. như một người ở trong một cái thùng bị xiên bởi một cây gươm, nhưng tất cả hoàn toàn không được tạo ra thật sự như những thứ được thấy. Tương tự thế, các hiện tượng như thân thể hiện diện được tạo ra từ chính phía của đối tượng nhưng trống rỗng trong việc được thiết lập cách ấy và luôn luôn như thế.
04/01/2021(Xem: 5429)
Đức Đạt Lai Lạt Ma đưa ra nhận xét chính thức đầu tiên về việc nghỉ hưu, từ các trách nhiệm chính trị trong một buổi giảng dạy công khai tại Tsuglagkhang, Dharamshala, ngày 19 tháng 3 năm 2011. Năm 1963, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã ban hành một Hiến pháp Dân chủ (democratic constitution) hoàn toàn dựa trên Giới luật Phật giáo, và bản Hiến chương Nhân quyền của Liên Hợp Quốc để biên soạn, và chuẩn bị cho một mô hình đất nước Tây Tạng tự do ở tương lai:
04/01/2021(Xem: 6842)
Ngày Xuân ngày Tết, nếu ai tìm những giờ phút thanh thản yên tịnh bằng những bước nhẹ nhàng khoan thai vào vãng cảnh các chùa chiền tự viện, dâng hương bái Phật, nếu để ý sẽ thấy ở một vách tường nào đó treo bộ tranh mang tên gọi là “Thập mục ngưu đồ”. Không phải chốn già lam thiền viện nào cũng có trưng treo, vì đó không phải là điều bắt buộc thuộc thanh quy giới luật, nhiều khi chỉ được treo để trang trí, hay được trưng ra ở một nơi hằng ngày đi qua đi lại như để nhắc nhở, vậy nếu khi ta bắt gặp được tức là ta đang hữu duyên, hãy đừng bỏ dịp đứng trước bộ tranh mang những nét sơ sài ấy để ngắm từng bức mà chiêm nghiệm nghiền ngẫm.
04/01/2021(Xem: 4234)
Phật Vàng (Golden Buddha) có tên chính thức trong tiếng Thái là “Phra Phuttha Maha Suwana Patimakon”, nặng 5,5 tấn. Sau nhiều lần di chuyển, pho tượng hiện đang nằm trong đền thờ Wat Traimit, Bangkok, Thái Lan. Hiện tại, mặc dù các học giả vẫn chưa xác định chắc chắn nguồn gốc của pho tượng là bắt nguồn từ thời gian nào. Nhưng dựa theo cấu trúc của phần đầu bức tượng (hình quả trứng), thì có thể đoán rằng, nó ra đời vào dưới triều Sukhothai vào thế kỷ 13 – 14 – một trong những giai đoạn nổi tiếng nhất của nghệ thuật kiến trúc Phật giáo Thái Lan.
03/01/2021(Xem: 8738)
Một Số Danh Tăng Việt Nam Tuổi Sửu Thiền sư TRÌ BÁT (Kỷ Sửu 1049) Thiền sư TỊNH THIỀN (Tân Sửu 1121) Hoà thượng THÍCH ĐẠT THANH (Quý Sửu 1853) Hoà thượng THÍCH GIÁC NHIÊN (Đinh Sửu 1877) Thiền sư THÍCH CHƠN PHỔ - THUBTEN OSALL LAMA (Kỷ Sửu 1889) Hoà thượng THÍCH BỬU LAI (Tân Sửu 1901) Hoà thượng THÍCH THIÊN ÂN (Ất Sửu 1925) Hoà thượng THÍCH MINH THÀNH (Đinh Sửu 1937)
03/01/2021(Xem: 5387)
“Con trâu là đầu cơ nghiệp”. Với một nước nông nghiệp như nước ta, hình ảnh con trâu nặng nề lầm lũi, kềnh càng cục mịch luôn gắn bó với những cánh đồng thửa ruộng, thân thiết với bao người nông dân chân lấm tay bùn, và gần gũi với lũ trẻ mục đồng thường nghêu ngao bài hát quen thuộc “Ai bảo chăn trâu là khổ, chăn trâu sướng lắm chứ!”… Không chỉ như thế, trâu cũng đã từng gắn bó với cuộc đời một vài danh nhân lịch sử như Đinh Bộ Lĩnh, Đào Duy Từ… Đối với nền văn học nước nhà, con trâu còn có cái công rất lớn trong việc làm phong phú ngôn ngữ, nhất là trong ca dao- đồng dao-tục ngữ.
01/01/2021(Xem: 5003)
Từ lâu các kinh sách Phật Giáo Việt Nam bị ảnh hưởng bởi ngôn ngữ âm Hán Việt của Trung Quốc. Từ những được chư tôn thiền đức Tăng Ni chuyển qua quốc ngữ tiếng Việt, để Phật tử dễ đọc, nhất là những vị chưa có kiến thức về âm Hán Việt. thế kỷ 20 (năm 2000 trở đi) các kinh sách dần dần đã Người biên soạn xuất gia tại Chùa Liên Hoa, Bình Thạnh, với Tôn Sư Hải Triều Âm, các kinh sách trong Chùa tụng bằng tiếng Việt do Tôn sư chuyển ngữ. Từ năm 2005 trở đi, người biên soạn định cư và hoằng pháp tại Hoa Kỳ. Nhiều Chùa ở Hoa Kỳ vẫn còn tụng kinh bằng âm Hán Việt và nhiều nơi phải tụng bằng tiếng Anh cho người bản địa và thế hệ con cháu thứ hai sanh tại Mỹ có thể tụng hiểu được. Phật tử Việt tụng kinh bằng tiếng Việt mà vẫn chưa hiểu được ý nghĩa ẩn sâu trong lời kinh và càng bối rối hơn khi tụng kinh bằng bằng âm Hán Việt. Đó là lý do thúc đẩy, chùa Hương Sen biên soạn một cuốn “NGHI LỄ HÀNG NGÀY” bằng tiếng Việt và tổng hợp gần 50 bài kinh:
01/01/2021(Xem: 5609)
Trong kho tàng văn học của Việt Nam và Phật Giáo, Trần Thái Tông (1225 - 1258) đã có những đóng góp vô cùng to lớn và giá trị, những sáng tác của Ngài, bất hủ qua dòng thời gian, tỏa sáng lồng lộng trên bầu trời Dân Tộc và Đạo Pháp. Trần Thái Tông được kể như một vị Thiền sư cư sĩ vĩ đại, nhà thiền học uyên thâm, thành tựu sự nghiệp giác ngộ. Một vị vua anh minh dũng lược, chiến thắng quân Nguyên Mông giữ gìn bờ cõi, đem lại cường thịnh ấm no cho dân cho nước, đã để lại tấm lòng cao quý thương yêu đời đạo, lưu lại di sản trí tuệ siêu thoát cho hậu thế noi theo.
29/12/2020(Xem: 6120)
Tịch tĩnh bất động hay định lực có thể đè nén những cảm xúc chướng ngại ẩn tàng, nhưng nó không thể loại trừ hoàn toàn chúng. Tuệ giác nội quán là cần thiết bởi vì như được giải thích trước đây, nó có thể loại trừ hoàn toàn những cảm xúc phiền phức và những rối rắm hậu quả của chúng. Thiền ổn định (chỉ) và thiền phân tích (quán) bây giờ phải làm việc với nhau. Khi chúng thể hiện chức năng cách này, chúng có thể nhổ gốc những cảm xúc phiền phức và loại trừ những giới hạn của thông tuệ vì thế chúng ta có thể hoàn thành mục tiêu tối hậu của việc giúp đở những kẻ khác một cách hiệu quả hơn.
29/12/2020(Xem: 5142)
Thơ thiền Nhật bản là cả một thế giới thi ca độc đáo, tiêu biểu cho tư tưởng và chủ trương tu tập của thiền học Zen, nhất là qua một thể thơ cực ngắn gọi là haiku. Điểm đáng lưu ý và cần nêu lên trước nhất là thơ thiền Nhật bản khác hẳn với thơ Đường của Trung quốc. Một số học giả, kể cả các học giả Tây phương, dường như đôi khi không nhận thấy được sự khác biệt này khi mang ra phân tích và tìm hiểu tinh thần Phật giáo chung cho cả hai thế giới thi ca trên đây.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]