Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Lời tựa

10/07/201112:48(Xem: 8824)
Lời tựa

ĐỨC ĐẠT-LAI LẠT-MA
NHỮNG LỜIKHUYÊN TÂM HUYẾT
Thựchiện với sự hợp tác của MATTHIEU RICARD
Chuyểnngữ từ tiếng Tây tạng sang tiếng Pháp: CHRISTIAN BRUYAT
Chuyểnngữ Pháp Việt: Hoang Phong

Lời tựa

Tại nơi cư trú của Đức Đạt-Lai Lạt-Ma trên đấtẤn, từ cửa sổ nhìn xuống là những cánh đồng bao la trải rộng tận cuối chântrời. Về phía bắc là các đỉnh núi tuyết phủ trắng gợi lại cho những người đếnviếng thăm những cảnh quang cũ của xứ Tây tạng, chỉ cách nơi này vài trăm câysố theo đường chim bay, tuy thật gần nhưng cũng lại thật xa.

Một sự yên lặng an bình tỏa rộng chung quanh.Nơi đây mọi người đều nói với nhau rất ít và nếu có thốt ra điều gì thì nóithật nhỏ nhẹ, vì dường như tất cả đều ý thức được sự kiêu căng trong những lờivô ích. Sự yên lặng chỉ tan biến khi bất chợt vang lên một tràng cười dòn dã củaNgài « Kundun ». Chữ « Kundun » có nghĩa là « Sự hiện hữu », đấy là danh hiệumà người Tây tạng dùng để gọi Đức Đạt-Lai Lạt-Ma với tất cả lòng trìu mến vàkính trọng.

Thật ra thì trong một năm, Ngài phải dành ranhiều tháng để đáp lại tấm chân tình của những người mang ước vọng ủng hộ chínhnghĩa Tây tạng, đang bị bóp nghẹt trong gọng kìm nghiệt ngã của chế độ độc tàiTrung quốc và bị các nền dân chủ bỏ rơi vì tham thị trường mới mà không cầnbiết đến công lý là gì. Con Người bước trên đường hành hương vì hoà bình ấykhông hề biết mệt, Ngài bị cuốn vào một cơn lốc sinh hoạt triền miên mà ngay cảnhững lúc nghỉ ngơi nếu có thì cũng phải tính từng phút một. Tuy nhiên, dù làmviệc vượt cả sức người, Ngài Kundun lúc nào cũng giữ được sự trong sáng và tháiđộ ân cần không bao giờ lay chuyển. Lúc nào cũng thế, trước mặt mọi người, dùlà một người bạn lâu đời, một khách viếng thăm hay một kẻ lạ gặp ở phi trường,Ngài đều tỏ ra ân cần, hiển lộ qua toàn thể thân xác Ngài, bằng những cái nhìnthật đặc biệt với đôi mắt hiện lên lòng tốt, sự đơn sơ và rất nhiều hómhỉnh.

Thông điệp của Ngài lúc nào cũng chỉ là một,Ngài lập đi lập lại không biết mệt với những ai muốn lắng nghe Ngài rằng: «Tất cả mọi sinh linh, kể cả những người đang hận thù ta, đều e sợ khổ đau và ướcmong hạnh phúc. Tất cả đều ngang hàng với chúng ta, đều có quyền đạt được hạnhphúc và xa lìa khổ đau. Hãy quan tâm đến tất cả mọi người một cách thành thật,đối với bạn hữu cũng như kẻ thù. Đấy là căn bản sơ đẳng nhất của lòng từ bi».

Cách nay vài năm, ông Alain Noël, giám đốc nhàxuất bản Presses de la Renaissance, có khẩn khoản xin Đức Đạt-Lai Lạt-Ma viếtmột quyển « di chúc tinh thần ». Tuy nhiên, vì lý do tất cả chúng tôi trongthâm tâm đều mong muốn là Ngài sẽ sống lâu hơn trăm tuổi, cho nên muốn giữ điềmlành đó được trọn vẹn và sau khi suy nghĩ kỹ, chúng tôi chỉ xin Ngài một loạtbài gồm những lời khuyên đơn giản, có thể mang lại chút gì đó cho mỗi người, dùtánh tình của họ ra sao, địa vị xã hội và nghề nghiệp của họ như thế nào. Thậthết sức tình cờ là ý kiến này cũng đã có ở Tây tạng, tức là các lời khuyên củacác vị đại sư thường được gom thành những pho sách mang tựa đề «Những lờikhuyên tâm huyết». Thế là tựa đề và cả hình thức của quyển sách này đã sẵnsàng.

Đức Đạt-Lai Lạt-Ma có rất ít thì giờ dành vàoviệc giao tiếp, vì thế chúng tôi thiết nghĩ nên lập trước một danh sách gồmnhiều chủ đề dự trù để tùy ý Ngài sẽ bỏ bớt hay triển khai thêm. Sau cùng Ngàilại thêm vào danh sách đó một số chủ đề mà chúng tôi không ngờ tới, đấy lànhững chủ đề mà Ngài hằng ấp ủ trong tim, chẳng hạn như về các tù nhân và nhữngngười đồng tính luyến ái.

Lời Ngài thốt ra có lúc thật nghiêm trọng, đôikhi rất hồn nhiên và vui tươi, có lúc lại rất kiên quyết hoặc tư lự và thỉnhthoảng bật lên những tràng cười dòn dã. Những lời của Ngài thật tự nhiên, khônghề chủ tâm làm vui lòng bất cứ một ai, và trong những lời nói đó luôn hiện lênmột nỗi âu lo sâu xa về những khó khăn của con người cùng những cái nhìn khôngthiếu sự nghiêm khắc đối với họ.

Người ta thường biết là Đức Đạt-Lai Lạt-Ma nóirất thẳng và hoàn toàn không có bất cứ một tham vọng nào thuộc cá nhân Ngài haythuộc về Phật giáo. Ngài vẫn thường nói rằng « Tôi chỉ là một nhà sư ». Mụcđích duy nhất của Ngài là chia sẻ những kinh nghiệm riêng của chính mình vớimọi người để cầu mong họ đạt được hạnh phúc bằng những cách thực tiễn nhất màNgài có thể làm được.

Ngài không dùng những thuật ngữ lắt léo haynhững ngôn từ tối nghĩa để che đậy những gì khó nói hay những lúc do dự. Nếu cómột vấn đề nào mà Ngài không thấy một giải đáp minh bạch hoặc điều đó không phùhợp với sự thực mà Ngài cảm nhận một cách sâu xa trong lòng, thay vì khéo léoche giấu những điều ấy bằng cách đánh trống lãng hay dùng những câu trả lời rỗngtuếch thì Ngài phô bày thẳng thắn sự bối rối của Ngài bằng cách ném thẳng mộtcâu cộc lốc : «Tôi không biết», khiến cho mọi người chưng hửng và bật cười.

Đối với những người hiểu Ngài đôi chút thìnhững câu trả lời và cách trả lời như thế đã phản ảnh đích thực cho thấy Ngàilà như thế và Ngài đã nghĩ như thế. Ngài không bao giờ tìm cách lắt léo để tỏra khác hơn.

Những lời khuyên của Ngài rất đơn giản vì Ngàinghĩ rằng rắc rối chẳng có ích lợi gì cả. Một số người cho rằng quả là một điềuthật ngây thơ khi cứ nhắc đi nhắc một cách chán ngấy rằng con người cần phải có«lòng tốt», tuy thế sự quan tâm của Ngài lại hết sức phù hợp với thực tế :Bản tính con người nói chung một mặt thì thiếu lòng từ tâm, mặt khác lại khôngchịu trau dồi phẩm tính căn bản ấy trong lòng. Như vậy thì đề cập đến chuyệnhoà bình thế giới hay những chủ đề lớn lao khác cũng giống như nói chuyện phiếmvô tích sự mà thôi.

Đức Đạt-Lai Lạt-Ma khích lệ chúng ta hãy triểnkhai lòng tốt và tình thương yêu mà Ngài luôn luôn quả quyết là những phẩm tínhấy đều đã có sẵn trong lòng mỗi con người chúng ta. Ngài kêu gọi chúng ta hãynhìn vào những kinh nghiệm thường nhật để nhận thấy cần phải « trở thành mộtngười tốt » thì mới có thể thừa hưởng được những gì tốt đẹp nhất trong sự hiệnhữu của con người. Ngài luôn luôn đặt nặng « trách nhiệm toàn cầu », và ý thứcmỗi người, với tư cách là thành viên của gia đình nhân loại, đều có thể trởthành một người thợ xây đắp cho hoà bình và bảo vệ chúng sinh. Ngài vẫn thườngnói rằng: « Sự giải trừ vũ khí bên ngoài cần phải đi đôi với sự giải trừ vũ khíbên trong ».

Sự giản dị trong các lời nói của Ngài có mụcđích giúp chúng ta nhìn thấy những gì cốt yếu. Vì vậy ta không nên vin vào đómà đánh giá Ngài không đủ khả năng để diễn đạt những ý tưởng sâu xa hay khúctriết. Khi có một lời giáo huấn hay một mẫu đối thoại nào thuộc lãnh vực triếthọc, siêu hình hay các vấn đề tâm linh, Đức Đạt-Lai Lạt-Ma sẽ phát biểu nhữngquan điểm vô cùng phong phú của Ngài mà chiều sâu có thể làm cho những học giảlỗi lạc nhất phải chao đảo.

Vào tháng ba năm 2000, từ nơi cư ngụ, và trongtinh thần trình bày trên đây, Đức Đạt-Lai Lạt-Ma đã gửi gấm cho chúng ta những«lời khuyên tâm huyết». Ngài giảng bằng tiếng Tây tạng và được thu âm, sau đóđược Cristian Bruyat và tôi chuyển ngữ. Trong một bầu không khí thoải mái, thânmật và hồn nhiên, Ngài đã nói lên những gì có thể ứng dụng ngay cho tất cả mọingười, trong mục đích phát huy một «đời sống tinh thần cho người thế tục», vàcố tình tránh né tối đa những khái niệm đặc thù của Phật giáo, nếu có thể. Nếuchúng ta đủ sức hấp thụ, dù chỉ là một phần nhỏ những lời khuyên của Ngài vàotư duy và hành động của chúng ta, thì thật cũng nên lấy đó làm một điều vuimừng.

Matthieu Ricard
Tuviện Schéchèn, Népal
16tháng 6, năm 2001
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
19/12/2020(Xem: 5065)
Ngày 10 tháng 12 vừa qua, theo Bình Nhưỡng đưa tin (KCNA) – Trong số những Di sản Văn hóa quý giá đất nước Triều Tiên có “Cao ly Bát Vạn Đại Tạng kinh” (고려 팔만 대장경, 高麗八萬大藏經, 80.000 Wooden Blocks of Complete Collection of Buddhist Scriptures” được khắc mộc bản vào nửa đầu thế kỷ 11, triều đại Vương quốc Koryo (918-1392).
19/12/2020(Xem: 4981)
Lối xưa người đến dạo chơi, Hoá thành chú Tiểu, học lời Thầy Trao. Thênh thang mây trắng hôm nào, Ra vào chốn tịnh, trăng sao gối tình.
13/12/2020(Xem: 6021)
Một học giả nổi tiếng người Anh, làm việc cho trường đại học ở Luân Đôn, nổi tiếng vì ông đã dịch một số sách vở Phật giáo từ tiếng Hoa. Trong số những ấn bản đã in của ông có tác phẩm “Cuộc Đời của Thánh Tăng Huyền Trang, The Life of Hsuan-Tsang”. Cư sĩ Samuel Beal sinh vào ngày 27 tháng 11 năm 1825, nguyên quán tại Greens Norton, một ngôi làng ở Nam Northamptonshire, Vương quốc Anh, vị học giả nổi tiếng Phương Đông học, vị Phật tử người Anh đầu tiên trực tiếp dịch những tác phẩm văn học Phật giáo từ tiếng Hoa sang Anh ngữ, ban đầy những ghi chép kinh điển Phật giáo, do đó góp phần làm sáng tỏ lịch sử Ấn Độ.
11/12/2020(Xem: 6035)
Phật giáo Hàn Quốc phải chịu đựng nỗi đau chưa từng có của “Pháp nạn 27.10” (10·27 법난, 十二七法難), nhưng chư tôn tịnh đức tăng già đã biến đau thương thành sức mạnh. Chẳng bao lâu, nỗi đau ấy đã thăng hoa thành động lực để sớm hồi sinh trong phúc lợi xã hội, và những thành tựu đáng kể bắt đầu đạt được trong các lĩnh vực xã hội dân sự, thông qua tổ chức phi chính phủ (NGO), nhân quyền, giao lưu liên Triều (Nam Bắc Hàn) và phúc lợi xã hội.
11/12/2020(Xem: 5535)
Mối quan hệ giữa Tây Tạng, Ấn Độ và Trung Quốc được minh họa rõ nhất qua lời của tác giả, nhà báo, nhà sử học và nhà tây tạng học, Cư sĩ Claude Arpi, người Pháp, người đã viết một loạt các tác phẩm quan trọng về Tây Tạng, Ấn Độ và Trung Quốc, bao gồm “Số phận Tây Tạng: Khi Những Côn trùng lớn ăn thịt Côn trùng bé; The Fate of Tibet: When the Big Insects Eats Small Insects”.
10/12/2020(Xem: 6245)
Trong số nhiều ấn phẩm sách báo, thư từ cũ xưa mà mẫu thân truyền giao cho tôi gìn giữ, bảo quản để làm tư liệu để viết lách sáng tác, tôi tìm thấy được quyến sách “Thi phẩm Từng giọt Ma Ni” (xuất bản năm 1993, bìa sách là tranh của Họa sĩ Phượng Hồng), cùng 02 phong bì thư của “Tạp chí An Lạc” được gửi qua bưu điện từ Sài Gòn ra Nha Trang vào năm 1966, trên các kỷ vật quý hiếm này đều có lưu thủ bút của một bậc danh tăng Phật giáo nước nhà: Hòa thượng Thích Thông Bửu.
10/12/2020(Xem: 5380)
Nữ nghệ sĩ Phật tử Jacques Marchais sinh năm 1887 tại Cincinnati, thành phố ở miền tây nam Ohio, Hoa Kỳ. Thân phụ của bà là cụ ông John Coblentz và mẫu thân là cụ bà Margaret Norman Coblentz. Vốn mồ côi cha từ thuở ấu thơ, mẹ phải vất vả đùm bộc trong cảnh gà mái nuôi con; Jacques Marchais đã đến các trại mồ côi và các mái ấm khác nhau trong suốt thời thơ ấu, và tuổi thanh xuân 16, bà đã trở thành diễn viên tham gia vào một bộ phim Boston Peggy From Paris, nơi bà gặp người chồng đầu tiên Brookings Montgomery. Bà sinh được ba người con, hai gái Edna May và Jayne, và con trai, Brookings.
08/12/2020(Xem: 14919)
29/ Nhị Tổ Huệ Khả Thượng Tọa Thích Nguyên Tạng giảng từ 6.45am, Thứ Năm, 01/10/2020 (15/08/Canh Tý) 🌺🍀💐🌼🌹🥀🌷🌸🏵️🌻🌺🍀💐🌼🌹🥀🌷🌸🏵️🌻 Bổn lai duyên hữu địa, Nhơn địa chúng hoa sanh, Bổn lai vô hữu chủng, Hoa diệc bất tằng sanh. Xưa nay nhơn có đất, Bởi đất giống hoa sanh, Xưa nay không có giống, Hoa cũng chẳng từng sanh Nam Mô Đệ Nhị Tổ Huệ Khả Tôn Sư 💐🌹🥀🌷🌷🌸🏵️🌻🌼 Múi giờ : pháp thoại mỗi ngày của TT Trụ Trì Thích Nguyên Tạng (trong thời gian cách ly vì đại dịch Covid-19) về chư vị Tổ Sư Ấn Độ, Trung Hoa, Việt Nam…) - 06: 45am (giờ Melbourne, Australia) - 01:45pm (giờ Cali, USA) - 04:45pm (giờ Montreal, Canada) - 10:45pm (giờ Paris, France) - 03:45am (giờ Saigon, Vietnam) 💐🌹🥀🌷🌷🌸🏵️🌻🌼💮🍂🍁🌾🌱🌿🍃 https://www.facebook.com/quangducwebsite
07/12/2020(Xem: 5541)
Cư sĩ Giuseppe Tucci (dʒuˈzɛppe ˈtuttʃi; sinh ngày 5 tháng 6 năm 1894 – mất ngày 5 tháng 4 năm 1984), Học giả tiên phong người Ý, nhà Đông phương học, Ấn Độ học, Đông Á học, người đã xuất bản một số sách, mở đầu cho việc nghiên cứu tôn giáo, lịch sử và văn hóa của Tây Tạng. Ông là một trong những học giả Tây phương đầu tiên du hành một cách rộng rãi trên khắp vùng cao nguyên, Phật giáo Kim Cương thừa Tây Tạng và các vùng phụ cận, những sách xuất bản của ông thường nổi tiếng về cả nội dung lẫn sự phiêu lưu mạo hiểm của ông trong khi làm nghiên cứu.
06/12/2020(Xem: 5494)
Đạo phật ngày nay đang xuyễn dương lối sinh hoạt của người con Phật là sống an nhiên tự tại trong hiện tiền. Lối sống được mọi người noi theo là tĩnh thức và hiện tại. Làm sao đạt được điều ấy? Và tại sao sống tĩnh thức và hiện tiền là chấm dứt khổ đau? Trong khi theo Phật dạy Tứ diệu đế thì tu tập diệt tận cùng lậu hoặc diệt khổ đau. Sống tĩnh thức là theo 4 y của Phật dạy: y pháp bất y nhân. Y nghĩa bất y ngữ. Y trí bất y thức. Y kinh liễu nghĩa bất y kinh bất liễu nghĩa. Sống hiện tiền là sống trong thiền định.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]