Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chương 19: Liên Trì Cảnh Sách

25/04/201116:08(Xem: 5526)
Chương 19: Liên Trì Cảnh Sách

LIÊN TRÌ CẢNH SÁCH
Thích Quảng Ánh Việt dịch
Nhà xuất bản Văn Hóa Saigon 2007

Chương XIX

LIÊN TRÌ CẢNH SÁCH

1. Phật pháp chú trọng ở thực hành

Học Phật được bao nhiêu năm, nếu ăn chay vẫn không được, không chịu niệm Phật tiếng nào, như thế bạn tự cho mình là đã học xong? Cần phải cảm sâu và hổ thẹn xấu hổ mới phải. Dù bạn hiện tại có thể tụng thuộc làu ba tạng kinh đi nữa, dẫu bạn hiện tại có khả năng diễn thuyết đạo lý huyền diệu xâu xa đi nữa, thì cũng thua xa bà già không biết một chữ nhưng tâm thành thật ăn chay niệm Phật. Bởi vì Phật pháp và phương pháp giáo dục chú trọng thực hành. Nói mà không làm, có khả năng nói mà không có khả năng làm thì không thể đến được chỗ tốt đẹp. Có thể làm mà không thể nói, cái gì cũng chẳng biết nhưng thu hoạch được lợi ích thì có ngại gì?

2. Ăn thịt bằng với tội giết hại

Kinh Lăng Nghiêm nói: ”Ăn thịt với giết hại đồng tội”. Bạn suốt ngày ăn thịt liền bằng với một ngày sát sinh. Mỗi ngày từ sáng đến tối tạo nghiệp và tạo giới sát sinh. Học Phật như thế làm sao thành tựu?

3. Người ăn thịt đoạn dứt hạt giống tình thương

Kinh Niết-bàn dạy rằng: ”Phàm kẻ ăn thịt là đã đoạn dứt hạt giống tình thương”. Học Phật chân chánh là học tập tình thương yêu của đức Phật. Bạn suốt ngày ăn thịt, hạt giống tình thương của Phật tánh đã đoạn đứt, làm sao bạn có tình thương, làm sao bạn học Phật được thành tựu?

4. Ăn thịt cầu công đức chẳng thành tựu

Kinh Lăng Nghiêm dạy: ”Kẻ ăn thịt cầu công đức chẳng thành tựu”. Bạn suốt ngày ăn thịt là suốt ngày tạo nghiệp giết hại, tất cả công đức tu hành đều tán mất hết. Làm sao thành tựu đạo nghiệp cho chính mình?

5. Chẳng biết tốt xấu

Kinh Đại Tập viết: ”Thời mạt pháp, ức ức người tu hành hiếm thấy một người đắc đạo, chỉ có nương pháp môn niệm Phật được qua biển sinh tử”. Thời mạt pháp nếu bỏ đi pháp môn niệm Phật thì không có bất cứ pháp môn nào có thể giải thoát được sinh tử. Bạn chẳng biết được tốt xấu, chẳng biết mình là phàm phu ngã mạn, trí tuệ mờ tối, chướng sâu, phước mỏng, nghiệp dày. Không chịu căn cứ vào lời dạy của đức Phật, thành thật tu hành nương nhờ sức Phật cứu giúp. Pháp môn niệm Phật không thể nghĩ bàn. Lại theo ý riêng tu hành các pháp môn khác thì không có cách gì đạt được lợi ích và thọ dụng chân thật, lại không thể giải thoát khổ đau sinh tử trong đời này!

6. Tu pháp niệm Phật là vững vàng nhất

Thiền sư Bách Trượng nói rằng: ”Tu hành, dùng pháp môn niệm Phật là vững vàng nhất”. Đây là một trong 20 điều phép tắc. Thiền sư Bách Trượng là bậc cao đức trong Thiền Tông, vì dạy dỗ đệ tử mà đề xuất ra. Pháp niệm Phật là con đường tu hành rất an ổn, vì niệm Phật được nương vào sức đại từ đại bi của Phật A-di-đà và sẽ được Ngài nhiếp thọ. Đây là con đường tu hành thành công tuyệt đối có bảo chứng. Tham thiền, học giáo và các pháp môn khác chỉ nương tựa vào sức mình. Chúng sinh thời mạt pháp căn cơ ngu đần và yếu đuối, nghiệp chướng sâu nặng, không nương sức bồn nguyện của Phật làm sao mà hành cho thông!

7. Tham thiền chẳng phải việc dễ

Không những chỉ riêng Thiền sư Bách Trượng mà trong lịch sử có biết bao nhiêu Thiền sư đều khuyên người niệm Phật cầu sinh Cực Lạc. Đến cả những bậc cao đức của tông Tịnh độ như Đại sư Liên Trì, Đại sư Triệt Ngộ đã từng trên hội tham thiền hạ thủ công phu. Nhân vì tham thiền chỉ nương sức mình, muốn được thành tựu không phải dễ dàng. Chư vị Tổ sư tự mình dò dẫm suốt mấy mươi năm, đều thầm biết được nương vào sức mình cạn cợt, nguy hiểm và không có cách gì để thành công. Vì thế, sau cùng đều quay về với pháp môn Tịnh độ, thành thật niệm Phật cầu sinh về thế giới Cực Lạc. Dùng một câu thánh hiệu Nam mô A-di-đà Phật hành trì trọn đời, tư lợi và lợi tha cũng chỉ một câu Nam mô A-di-đà Phật.

8. Hãy nhanh quay về niệm Phật

Quá trình lịch sử là một tấm gương. Bao nhiêu thí dụ về sự tu hành của chư vị cổ đức đều để cảnh giác chúng ta. Hiện tại, người tri thức về học vấn rất thích tham thiền và nghiên cứu giáo lý, lại coi rẻ việc niệm Phật, xem niệm Phật là cạn cợt, là pháp môn của kẻ nam nữ ngu si. Xin những người này hãy tự hỏi lại lương tâm. Trí tuệ của quý vị có sánh được Thiền sư Bách Trượng, Đại sư Liên Trì, Triệt Ngộ hay không? Sự tu hành tinh tấn của quý vị có vượt trội như chư vị cổ đức hay không? Chư vị cổ đức với nghị lực và trí tuệ hơn người, đã tiêu phí tâm huyết hơn mấy mươi năm đều không có cách gì ở trong tham thiền đạt được thành tựu. Quý vị tự cho mình là hạng người gì, còn lớn tiếng không thẹn thùng, chỉ muốn tham thiền không nguyện niệm Phật? Có thể nói rõ với quý vị, tất cả sự nỗ lực đều phí tổn tâm huyết mà thôi, tuyệt không có cách gì thành công được. Hãy nhanh quay về niệm Phật đi, chớ nên coi thường việc này. Rất mong! Rất mong!

9. Nghiệp chướng

Chúng ta biết rõ danh lợi như dao hai lưỡi thường hại người, nhưng chúng ta vẫn chen nhau dành lấy. Biết rõ tình ái cuối cùng sẽ làm con người đau khổ nhưng vẫn dần chìm sâu vào trong ấy. Chúng ta đã biết cần phải sửa đổi thói quen xấu nhưng vẫn phạm những sai lầm này đến sai lầm khác, vẫn nhiều lần phạm giới. Đã biết cần phải tinh tấn niệm Phật nhưng vẫn dây dưa, lười biếng không niệm. Đã biết cần phải phát nguyện sinh về cõi Phật nhưng vẫn tham luyến Ta-bà… Những tệ hại này vì là nghiệp chướng chúng ta quá sâu nặng. Vì nghiệp chướng sâu nặng nên chúng ta tiếp tục chìm đắm không thể thoát khỏi luân hồi. Vì thế, cần phải học đến lúc không còn nghiệp chướng, có cầu gì đều được thuận lợi, không có nguyện thì không thành công. Nghiệp chướng không tiêu thì trở ngại đua nhau đến làm khó khăn muôn vạn.

10. Nỗ lực tiêu trừ nghiệp chướng

Đã biết mình là phàm phu thấp kém, nghiệp chướng sâu nặng, phải nên từ trong tâm sinh hổ thẹn thành thật sám hối. Trong sinh hoạt thường ngày phải luôn quán chiếu lại chính mình và khiêm nhường xét lại thân tâm, trên sự tu tập phải nhắm vào sự tiêu trừ nghiệp chướng để ra sức thực hành.

11. Phương pháp tiêu trừ nghiệp chướng

Nghĩ muốn tiêu trừ nghiệp chướng phải cần nội công và ngoại công song hành, hạnh chánh và hạnh phụ gồm tu. Nội công là hạnh chánh, đó là niệm Phật lễ Phật . Niệm Phật trong sinh hoạt phải luôn nhớ thầm niệm một câu thánh hiệu Nam mô A-di-đà Phật. Dùng nhất niệm vạn đức hồng danh chí tôn vô thượng để trung hoà tất cả vọng niệm và thói xấu tham, sân, si từ vô thuỷ kiếp đến nay. Những nghiệp chướng nặng nề này sẽ dung hoà vào một câu thánh hiệu Nam mô A-di-đà Phật, và được đức Phật A-di-đà đại từ đại bi và tất cả chư Phật trong mười phương hộ niệm, che chở và bao bọc, giúp tiêu trừ nghiệp chướng của chính mình. Lạy Phật chính là kính lễ chư Phật để sám hối nghiệp chướng của chúng ta. Mỗi ngày lễ 88 vị Phật hoặc chuyên lạy Phật A-di-đà để sám hối. Trong quá trình lễ lạy, ba nghiệp thân, khẩu, ý thanh tịnh nương vào sức bồn thệ nguyện của chư Phật, dùng sức mạnh sám hối để diệt trừ tội lỗi và tiêu trừ nghiệp chướng. Ngoại công là hạnh phụ có thể giúp thành tựu đạo nghiệp của chúng ta. Ngoại công chính là ăn chay và phóng sinh. Chúng ta trong sinh hoạt hàng ngày không nên làm điều ác, nhớ phải tu nghiệp lành. Việc cực ác chính là ăn thịt và giết hại. Vì thế, muốn dứt điều ác trước hết phải ăn chay. Việc thiện lớn nhất là chuộc mạng phóng sinh. Vì thế, muốn tu điều thiện, trước phải lo chuộc mạng phóng sinh. Ăn chay và phóng sinh là hai bài tập quan trọng nhất của người tu Phật

Nếu như có thể nội công và ngoại công cùng tu, thì dùng nội công niệm Phật, lạy Phật làm chính; lấy hạnh ăn chay và phóng sinh làm phụ. Cần phải hết lòng chí kính nỗ lực tinh tấn thì sẽ thành tựu nhanh chóng.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
08/04/2013(Xem: 12882)
Thời gian cứ mãi trôi. Vạn vật tiếp nối đổi dời thay hình biến sắc chẳng dừng. Bởi tâm người bất định, nên hình thành cảnh vật không thường. Chúng sanh tâm vô thường, nên hình thành cảnh vật bất an. Khác với tâm chúng sanh, tâm những người giác ngộ thì an định, nên tạo thành cảnh vật thường lạc. Vọng tưởng là trạng thái tâm thức si mê, tham vọng, phiền não đảo điên. Bất loạn là thể hiện tâm trí giác ngộ, thường nhiên an lạc.
08/04/2013(Xem: 25029)
Kinh Pháp Cú (Dhammapada) là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka Nikaya) trong Kinh tạng Pali (Suttanta Pitaka). Ðây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới. Pháp (Dhamma) có nghĩa là đạo lý, chân lý, lời dạy của Ðức Phật; Cú (Pada) là lời nói, câu kệ. Ngoài ra, trong ngữ văn Pali, "Pada" còn có nghĩa là con đường. Do đó, Dhammapada thường được dịch là Con đường Chân lý (Path of Truth), Con đường Phật Pháp (Path of the Buddha's Teaching).
08/04/2013(Xem: 6642)
Đứng nhìn Tượng Đức Bồ Tát Quán Thế Âm vươn cao lên trên bầu trời, một hình ảnh quá thiêng liêng và tuyệt đẹp. Tượng Ngài màu trắng nổi bật trên nền màu xanh, có những đám mây trôi qua, nhẹ nhàng càng tô điểm thêm vẻ đẹp, . . .
08/04/2013(Xem: 5254)
Trong tâm mỗi chúng sanh đều có một vị Quán Thế Âm Bồ-tát. Nhân dịp vía đức Quán Thế Âm Bồ Tát, Bồ Đề Hải xin đăng một bài giảng của Hòa Thượng vào ngày 16 tháng 3 năm 1976 trong dịp Quán Âm Thất.
08/04/2013(Xem: 6881)
Mấy ngày vừa qua, thành phố Houston- Texas, mưa thật nhiều. Không biết lượng nước mưa từ đâu đổ dồn về, có lúc kéo dài 21 ngày liên tục. nhiều vùng bị lụt, nhiều nơi bị những cơn giông làm sụp nhà cửa. Theo tin tức đã có 13 người chết.
08/04/2013(Xem: 7406)
Cuộc đời hoằng pháp của Đức Thích Ca được nhân loại chiêm ngưỡng, khảo nghiệm dưới nhiều góc độ: giải thoát học, tôn giáo học, khoa học, triết học, sử học... Song, tất cả đều có chung một mẫu số rằng: "Suốt 25 thế kỷ qua, Đức Phật, người sáng lập ra đạo Phật ...
08/04/2013(Xem: 18807)
Sa di nam, tiếng Phạn là Sramanera, và Sa di ni là Sramanerika. Sa di thường được dịch là tức từ. Tức là chấm dứt, quyết tâm chấm dứt nếp sống hệ lụy và khổ đau. Từ là thương yêu, học hỏi thương yêu mọi người và mọi loài bằng trái tim của một vị bồ tát, không vướng mắc, không phân biệt. Sa di cũng có nghĩa là cần sách, nghĩa là chuyên cần và luôn luôn được nhắc nhở.
08/04/2013(Xem: 7313)
Chợt thấy xuân mời, vào một sáng ngồi rơi im lặng, hơi thở bay vào trong phong bão, cơn say tỉnh cơn gió mỉm cười, lay cánh mai
08/04/2013(Xem: 6313)
“Tu Bồ Đề! Nhược hữu thiện nam tử, thiện nữ nhơn sơ nhựt phần dĩ hằng hà sa đẳng thân bố thí; trung nhựt phần diệc dĩ hằng hà sa đẳng thân bố thí; hậu nhựt phần diệc dĩ hằng hà sa đẳng thân bố thí, như thị vô lượng bách thiên vạn ức kiếp dĩ thân bố thí. Nhược phục hữu nhơn văn thử kinh điển tín tâm bất nghịch, kỳ phước thắng bỉ; hà huống thơ tả, thọ trì đọc tụng, vi nhơn giải thuyết”.
08/04/2013(Xem: 5210)
Như mọi người đều biết, Đạo Phật trong suốt những thập niên qua đã có nền tảng khá vững chắc tại phương Tây. Riêng tại Đức, sự tìm hiểu và tu tập giáo lý Phật Đà của người bản xứ ngày càng nhiều thấy rõ. Ở điểm này có rất nhiều lý do để dẫn chứng.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567