Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chương 11: Liên Trì Cảnh Sách

25/04/201116:08(Xem: 7786)
Chương 11: Liên Trì Cảnh Sách

LIÊN TRÌ CẢNH SÁCH
Thích Quảng Ánh Việt dịch
Nhà xuất bản Văn Hóa Saigon 2007

Chương XI

LIÊN TRÌ CẢNH SÁCH

1. Ăn chay, phóng sinh

Học Phật, điều tối quan trọng chính là cần thực hành. Trong cuộc sống không nên làm các điều ác, siêng năng làm các việc lành. Nghiệp sát sinh nặng nhất, nên kinh Lăng Nghiêm nói rằng: ”Ăn thịt với sát sinh tội nặng giống nhau”. Ăn thịt tội bằng việc sát sinh. Vì thế, trong việc đoạn ác, phải lấy không sát sinh và ăn chay làm trước. Trong tất cả các điều thiện, phóng sinh là bậc nhất. Bởi vì phóng sinh chính là cứu mạng sống chúng sinh, nên công đức rất lớn. Vì thế, trong các nghiệp thiện phải lấy hạnh phóng sinh cứu chuộc mạng sống chúng sinh làm đầu. Cho nên, Luận Đại Trí Độ nói rằng ”Trong các tội, tội giết hại rất nặng; trong các công đức, phóng sinh là bậc nhất”.

2. Bài tập quan trọng

Nói đơn giản, học Phật thực tiễn phải lấy việc ăn chay làm đầu cho hạnh tu thiện. Vậy việc ăn chay và phóng sinh là hai bài tập quan trọng nhất của người học Phật

3. Thường xuyên quán chiếu chính mình

Người học Phật cần thường xuyên quán chiếu lại chính mình, xem xét lời nói, hành động và cử chỉ trong cuộc sống hằng ngày của bản thân. Nếu có những ý nghĩ không tốt, phải luôn hổ thẹn sám hối. Bằng không, chúng ta vẫn mãi là kẻ phàm phu còn trói buộc, luôn làm và nói những điều phạm phải sai lầm. Vậy quán chiếu chính mình, lo tu sửa cho tốt mới có khả năng tiến bộ trên đường học Phật, ngày càng có thêm công đức và dần dần hướng đến cảnh giới tốt.

4. Bồ-tát sợ nhân, chúng sinh sợ quả

Quả từ nhân đem đến. Người có trí tuệ nếu gặp sự không tốt, với vấn đề này phải biết kiểm thảo lại chính mình để tìm ra nguyên nhân, Phải tìm ra chỗ thắc mắc không giải quyết được để sửa lỗi lầm. Phải biết nhân chánh thì quả tròn. Người ngu si ở trên quả báo tính toán, tìm tòi, cuối cùng chỉ uổng công vô ích, một việc nhỏ cũng không thành, cho nên Bồ-tát sợ nhân, chúng sinh sợ qủa. Người học Phật cần phải phần nhiều từ nơi nhân hạ thủ công phu.

5. Nhà mình chính là đạo tràng

Học Phật là để đạt đến sự giác ngộ, chứ không phải hướng theo duyên ngoài. Nhà chúng ta ở chính là đạo tràng tu học. Công tác sinh hoạt bản thân thể hiện sự tu hành. Trong sinh hoạt nỗ lực thật tốt làm tròn bổn phận. Hiếu thuận với cha mẹ, tôn kính các bậc sư trưởng. Tuỳ thời, tuỳ chỗ quán chiếu chính mình,quay về xem xét những ý nghĩ, lời nói, hành động và cử chỉ của bản thân. Từ đó, gia sức hành trì đúng đắn, sửa việc xấu thành tốt. Đây chính là người chân chánh học Phật

6. Người học Phật gương mẫu

Thông thường, có thể ở ngay cương vị và công tác, chúng ta hết lòng làm tốt bổn phận, đồng thời có thể trong sinh hoạt, tuỳ thời soi xét lại thân tâm, theo đó nên hổ thẹn sám hối lỗi lầm. Dùng tâm khiêm tốn đối với người. Trong sinh hoạt phải thưởng trì tụng một câu Thánh hiệu Nam mô A-di-đà Phật. Nên hết lòng chân thật chấp trì danh hiệu Phật, mới xứng đáng là người học Phật gương mẫu

7. Khó hành đạo - dễ hành đạo

Ước muốn được thành Phật, chúng ta chọn pháp tu như Thiền tông, Mật tông hay Luật tông đều phải trải qua ba đại A-tăng-kỳ kiếp, ròng ra tu hành mới có thể thảnh công, bởi chỉ nương vào tự lực nên rất khó. Khi chọn tu pháp môn Tịnh độ, chúng ta nương vào một câu thánh hiệu Nam mô A-di-đà Phật, liền có thể một đời thành tựu vượt phàm vào Thánh. Nguyên do là chúng ta nương tựa vào sức bổn nguyện của Ngài sẽ được ngài gia hộ cho nên dễ dàng thành tựu.

8. Sự quan trọng của thiện tri thức

Thời đại mạt pháp, chúng sinh nghiệp chướng nặng nề, phước báo mỏng manh. Người học đạo thì nhiều, song người được đạo lại rất ít. Rất nhiều người đã dùng hết tâm huyết, hao tổn hết tinh thần, tiền của và sức lực để học đạo, cuối cùng lại không được gì cả. Nguyên nhân chính là do thiếu thiện tri thức dẫn đường, không chọn đúng phương pháp, lại đi lầm đường lạc mất phương hướng. Vì thế, nương tựa một vị thiện tri thức sáng suốt để tu hành là điều không thể thiếu. Dưới sự quan tâm và chỉ dẫn của thiện tri thức mà dụng công tu hành, tuỳ thời thưa hỏi mà tu sửa lấy mình, mới không đến nỗi phí công vô ích.

9. Không nên phát nguyện suông

Đã phát nguyện thì cần phải thực hiện, không nên phát nguyện suông. Có một dạng người có hứa nhưng không làm tròn còn thấy không được, huống chi là đệ tử chân chánh của Phật đối trên chư Phật và Bồ-tát chứng minh phát nguyện. Vì thế, cần nên thận trọng, lượng sức mà làm. Không nên tham vinh dự hão huyền, hào nhoáng bên ngoài hay vì hư danh phẩm vị, đành để lời nguyện siêu xuất của chính mình biến thành nguyện suông.

10. Nền tảng của sự tu hành

Giới luật là nên tảng của đời sống tu hành. Như nhà lầu nhiều tầng nhưng móng không chắc, lại xây cao thì về sau bất cứ sự chống đỡ nào cũng là uổng công vô ích, không sao chánh khỏi sụp đổ. Vì thế, Phật dạy chúng ta phải lấy “giới làm thầy” Tuỳ lúc, tuỳ nơi xem xét lại thân tâm để kiểm khảo lời nói và cử chỉ, hành động của chính mình. Hãy nhớ thôi thúc và tu sửa hành vi của mình cho được ngay thật, mới xứng đáng là đệ tử của Phật.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
07/12/2010(Xem: 8318)
Chúng ta cần biết ý nghĩa Giáo Pháp là gì. Giáo Pháp hay Pháp bảo là một từ ngữ tiếng Phạn mà có nghĩa đen là một “phương sách phòng ngừa”.
06/12/2010(Xem: 10464)
Ở đây giáo sư tiến sĩ Alexander Berzin từng nghiên cứu và tu tập với những đạo sư Tây Tạng gần ba mươi năm tại Dharamsala, Ấn Độ, sẽ giảng giải việc thực hành bảy điều quán nguyện trong đời sống tu tập thực tiễn hằng ngày.
05/12/2010(Xem: 6932)
Năm giờ sáng, mây xám tuy mỏng, nhưng che phủ bầu trời, che cả những vì sao muộn khiến không gian ẩm tối, lạnh lẽo và rưng rức quạnh hiu! Vậy mà có vị Phật lặng thinh ngồi đó...
04/12/2010(Xem: 6796)
Nói đến chữ tu, có người lầm tưởng rằng phải bỏ nhà, bỏ cửa, bỏ vợ con để tìm nơi non cao thanh vắng, hoặc ở chùa, ở am mới gọi là tu. Không phải như thế đâu, tu có nghĩa là sửa đổi, trau dồi. Sửa là sửa hư, sửa sai, sửa lạc lầm, sửa xấu thành tốt, sửa dữ thành hiền, tà vạy thành ngay thẳng, tối tăm thành sáng suốt, si mê thành giác ngộ, phàm phu thành thánh hiền, chúng sanh thành Phật, sanh-tử thành Niết-Bàn.
03/12/2010(Xem: 5938)
Một đệ tử đang ở trong tù viết thư cho Rinpoche khẩn cầu ngài ban những thực hành cho quãng đời còn lại của anh. Rinpoche đã trả lời như sau. Bài do Michelle Bernard biên tập.
03/12/2010(Xem: 18471)
Cuốn sách mang đến cho bạn đọc những suy ngẫm nghiêm túc về hạnh phúc mà đôi khi có thể chúng ta ngộ nhận hoặc lầm lẫn với niềm sung sướng.
30/11/2010(Xem: 12299)
Đức Phật dạy rằng nếu muốn tự giải thoát ra khỏi thế giới Ta bà thì phải tuân theo ba lời giáo huấn tối thượng như sau : đạo đức, chú tâm và trí tuệ. Khi nào biết noi theo ba lời giáo huấn ấy thì ta sẽ đạt được sự giải thoát cá nhân...
28/11/2010(Xem: 8688)
Lâu lắm chúng tôi không có cơ hội về giảng cũng như nhắc nhở sự tu hành cho toàn thể chư Tăng Ni ở khu Đại Tòng Lâm. Hôm nay được ban tổ chức trường hạ Đại Tòng Lâm mời về thăm và nói chuyện với tất cả Tăng Ni và Phật tử nơi đây, tôi liền hoan hỉ chấp nhận.
27/11/2010(Xem: 11991)
Trong khi Đức Phật tạo mọi nỗ lực để dẫn dắt hàng đệ tử xuất gia của Ngài đến những tiến bộ tâm linh cao cả nhất, Ngài cũng nỗ lực để hướng dẫn hàng đệ tử cư sĩ tiến đến sự thành công...
25/11/2010(Xem: 27209)
Trần Thái Tông là vị vua đầu của triều Trần. Ngài là đệ tử của thiền sư Viên Chứng trên núi Yên Tử. Ngài vừa làm vua vừa thực tập thiền. Ngài cũng từng thực tập thiền công án. Đây là 43 công án Vua đưa ra để cùng thực tập với tăng thân của Vua, gồm có giới xuất gia và tại gia. Thầy Làng Mai đã dịch những công án này ra tiếng Việt và tiếng Pháp năm 1968. Bản dịch tiếng Pháp xin xem ở phần phụ lục cuốn Clé Pour Le Zen, tác giả Nhất Hạnh, do nhà xuất bản JC Lattes ấn hành. Bản Hán Việt có trong Thơ Văn Lý Trần quyển II (Quyển thượng, trang 108-121), NXB Khoa Học Xã Hội.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]