Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

2. Đặc tính giáo dục của Phật giáo

11/04/201100:49(Xem: 17252)
2. Đặc tính giáo dục của Phật giáo

ĐẠO PHẬT XƯA VÀ NAY

Thích Hạnh Bình

PHẦN 1

ĐẠO PHẬT XƯA VÀ NAY

2. Đặc tính giáo dục của Phật giáo

Với chủ đề về vấn đề giáo dục của Phật giáo, có hai nội dung chúng ta cần quan tâm là: 1.Tinh thần giáo dục của đức Phật. 2.Hình thức giáo dục của đạo Phật. Đây là hai vấn đề chính mà chúng ta sẽ thảo luận trong tiết mục này.

2.1. Tinh thần giáo dục

Cho dù chúng ta đứng từ góc độ nào nhìn về đức Phật đều có nhận định chung rằng: Sự ra đời của Ngài chỉ có một mục đích duy nhất là mang lại sự giác ngộ và giải thoát cho chúng sanh. Muốn thành đạt sự giác ngộ giải thoát này, chúng sanh cần phải ngang qua những phương pháp tu tập, huấn luyện thân và tâm, làm chấm dứt những nguyên nhân gây ra khổ đau cho con người trong đời sống hiện tại và mai sau. Chúng ta có thể gọi đây là tinh thần hay mục đích giáo dục của đạo Phật, nó không giới hạn chỉ có trong Phật giáo Nguyên thủy, Phật giáo Bộ phái hay Phật giáo Đại thừa, vì đó là tinh thần chung của đạo Phật, được chứa đựng trong Tam Tạng kinh điển, bao gồm trong 2 hệ kinh điển Nam và Bắc truyền.

Để làm sáng tỏ ý nghĩa này, ở đây chúng ta có thể trích dẫn một vài ví dụ điển hình để cho chúng ta hiểu rõ vấn đề hơn. Trước hết trong kinh điển Nam truyền “Kinh Tương Ưng Bộ”, đức Phật dạy:

Vì hạnh phúc cho quần chúng, vì an lạc cho quần chúng, vì lòng thương tưởng cho đời, vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho chư thiên và loài người…[4]

Cũng trình bày ý nghĩa này, “Kinh Tăng Chi” đức Phật lại nói rõ hơn:

Một người, này các Tỷ kheo, khi xuất hiện ở đời, sự xuất hiện đem lại hạnh phúc cho đa số, an lạc cho đa số, vì lòng thương tưởng cho đời, vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho chư thiên và loài người. Người ấy là ai? Chính là Thế Tôn, bậc A la hán, Chánh đẳng giác…[5]

Một ví dụ khác, ‘Phẩm Tựa’ trong “kinh Diệu Pháp Liên Hoa” là kinh điển của Phật giáo Đại thừa đức Phật cũng nói:

Chư Phật Thế Tôn chỉ vì nhân duyên lớn mà xuất hiện ở đời, đó là vì muốn cho chúng sanh khai… thị…ngộ… nhập… tri kiến Phật mà sinh ra ở đời.[6]

Qua những lời trích dẫn cụ thể vừa nêu trên, chúng ta thấy cả hai hệ thống kinh điển của Phật giáo Tiểu Thừa và Đại Thừa đều ghi nhận, mục đích ra đời của đức Phật chính là mang lại sự giác ngộ và giải thoát cho chúng sanh, hay nói một cách khác, sự ra đời của đạo Phật là mang lại sự hạnh phúc và an lạc cho con người. Đây chính là ý nghĩa mà Bà la môn ÀrŒmadaöda đứng trước tôn giả KaccŒna đã bày tỏ tâm tư của mình về đức Thế tôn như sau:

Thật vi diệu thay, thưa tôn giả KaccŒna! Thật vi diệu thay, thưa tôn giả KaccŒna! Như người dựng đứng lại những gì đã quăng ngã xuống, thưa tôn giả KaccŒna, phơi bày ra những gì bị che kín, chỉ đường cho kẻ lạc hướng, hay đem đèn vào bóng tối để cho những ai có thể thấy sắc…con xin qui y tôn giả Gotama…[7]

Ở đây, chúng ta hiểu như thế nào về trường hợp gọi là phơi bày ra những gì bị che kín, chỉ đường cho kẻ lạc hướng, hay đem đèn vào bóng tối để cho những ai có thể thấy sắc. Nội dung và ý nghĩa câu nói này, ngoài ý nghĩa kaccŒna nói lên lời ca tụng lời dạy của đức Phật, còn mang ý nghĩa chỉ trích về lối giáo dục mơ hồ của những tôn giáo khác, vạch trần một thể chế chính trị bưng bít và độc quyền của giai cấp Bà la môn. Vì giai cấp thống trị đã phân chia xã hội thành bốn giai cấp (Bà la môn, Sát đế lợi, Phệ xá và Thủ đà la). Hai giai cấp đầu Bà la môn và Sát đế lợi là những người thuộc dòng dõi Bà la môn vốn là giống dân Aryan - ngoại quốc muốn giữ quyền cai trị đất nước, còn lại hai giai cấp Phệ xá và Thủ đà la là hai giai cấp của người thổ dân, chỉ biết làm lụng phục vụ cho hai giai cấp trên; nhất là giai cấp Thủ đà la là giai cấp nô lệ, họ không có quyền yêu cầu bất cứ điều gì, ngay cả quyền được tu tập, mong kiếp sau được chuyển đổi giai cấp nô lệ của mình, thành giai cấp tốt đẹp hơn, thế nhưng điều đó cũng không thành, vì đó là số phận đã được Phạm Thiên an bài. Thật sự mà nói, trước một thể chế khắc nghiệt như vậy, họ tưởng chừng như không bao giờ có cuộc sống an lạc và hạnh phúc, đời đời kiếp kiếp vẫn làm thân phận của người đầy tớ cho kẻ khác, mặc dù họ sống với tâm tư lương thiện, muốn sửa đổi đời sống, thân phận thấp hèn của mình. Có thể nói, đó là đường hướng giáo dục đen tối, làm cho con người càng ngày càng ngu muội, với ý đồ muốn cho những người bị trị chấp nhận thân phận của mình, đây là chính sách giáo dục ngu dân. Có lẽ đây chính là lý do tại sao sau khi nhà vua Asoka thống nhất đất nước, nhà vua không lấy những tôn giáo truyền thống Ấn Độ làm quốc giáo mà lại lấy Phật giáo làm quốc giáo.

Đức Thế Tôn đã đứng từ lập trường con người với khối óc và suy tư của con người, Ngài vận dụng chân lý duyên khởi để bẻ gãy lý thuyết ‘Phạm ngã đồng nhất thể’ của giai cấp bà la môn, đồng thời Ngài sử dụng trái tim của con người, nêu cao tinh thần thương yêu đồng loại, đả phá chế độ phân chia giai cấp, nên Ngài đã làm được điều đó. Giả dụ, nếu chúng ta là người kém phước sinh ra làm kẻ nô lệ của xã hội đó, chúng ta sẽ nghĩ như thế nào về sự ra đời của đức Phật, phải chăng như ÀrŒmadaöda đã nói: Phơi bày ra những gì bị che kín, chỉ đường cho kẻ lạc hướng, hay đem đèn vào bóng tối để cho những ai có thể thấy sắc. Từ sự kiện này, chúng ta có thể nói đây là một trong những mặt đóng góp tích cực của đức Phật cho con người và xã hội mà chúng ta hiểu và nắm bắt được. Trong sự nghiệp giáo dục của Ngài còn biết bao nhiêu sự kiện mà chúng ta chưa phát hiện và thực nghiệm được, như là sự giác ngộ và giải thoát.

Như vậy, mục đích ra đời của đức Phật là mang lại cho con người sự hạnh phúc và an lạc. Thế thì điều đó có ý nghĩa là tinh thần giáo dục của Phật giáo lấy sự giác ngộ và giải thoát làm mục đích, cho dù đó là Phật giáo Tiểu thừa hay Đại thừa, Bắc tông hay Nam tông. Dù cho chúng ta có nhân danh Phật giáo nào đi chăng nữa, nhưng nếu đời sống sinh hoạt cá nhân hay tập thể không có liên hệ đến sự giác ngộ và giải thoát, ngược lại đời sống ấy ẩn chứa những mầm mống bất thiện, có xu hướng đọa lạc, liên hệ với lòng dục lòng dục sân hận và ngu si, thì sinh hoạt đó, đời sống đó không thể gọi là Phật giáo. Đây là điểm mà chúng ta cần chú ý.

Sự ra đời của đạo Phật giáo vốn là vì con người và xã hội mà phục vụ, không phải Phật giáo sinh ra đời để con người phục vụ đạo Phật. Nếu như ý nghĩa này được chấp nhận thì vấn đề Phật giáo có những nhu cầu về vật chất, chúng ta nên xem nó như là phương tiện hữu ích và có ý nghĩa giúp cho con người mau chóng thành đạt mục đích mà đạo Phật đã đề ra, không nên xem những cơ sở vật chất như là sự thành tựu của đạo Phật, ý nghĩa này như đã được đức Phật chỉ dạy trong ‘Kinh Thừa tự Pháp’ “Kinh Trung Bộ” tập 1.

2.2. Hình thức giáo dục

Nói đến giáo dục là nói đến đối tượng giáo dục, đối tượng mà Phật giáo dục là CON NGƯỜI. Như chúng ta đã biết, giáo pháp mà đức Phật giác ngộ dưới cội cây Bồ đề là chân lý của sự sống, không phải là lý thuyết suông, cũng phải là vật để tôn thờ, tụng đọc hằng ngày, không liên hệ gì với cuộc sống. Giáo lý đó Ngài không có ý định dành riêng cho bất cứ ai, mà cho tất cả những ai muốn được giác ngộ và giải thoát, tất cả con người đều là đối tượng được đức Phật giảng dạy và trao truyền, ở bất cứ đâu và thời gian nào. Thế nhưng, chúng sanh căn tánh không đồng, nghiệp lực không giống nhau, cho nên Ngài đã dùng nhiều pháp môn khác nhau, để hướng dẫn chúng sanh ấy hướng đến giác ngộ. Có nghĩa là tùy theo tính đặc thù của mỗi đối tượng Ngài trình bày giáo pháp khác nhau, do vậy nội dung lời giảng dạy của Ngài cũng khác nhau. Sự khác biệt này nói lên tính bất đồng của chúng sanh, không phải là sự bất bình đẳng trong đạo Phật.

Quan điểm này, chúng ta rất thường gặp trong hai hệ thống kinh điển của Phật giáo Đại thừa và Tiểu thừa. Ví như ‘Phẩm Phương Tiện’ trong “Kinh Pháp Hoa” là một ví dụ điển hình; và ‘Kinh Nhiều Cảm Thọ’ trong “Kinh Trung Bộ” đức Phật cũng nói lên ý nghĩa này như sau:

Này Ananda, vì pháp được ta thuyết giảng tùy theo pháp môn như vậy, nên đối với những ai không chấp nhận, không tán đồng, không tùy hỷ những điều được khéo nói, khéo thuyết, khéo trình bày cùng nhau, thời sự kiện này sẽ xảy ra: họ sẽ sống đấu tranh, khẩu tranh, luận tranh, đả thương nhau với những binh khí miệng lưỡi. Như vậy, này Ananda pháp được ta thuyết giảng tùy theo pháp môn. Này Ananda, vì pháp được ta thuyết giảng tùy theo pháp môn như vậy, nên đối với những ai chấp nhận, tán đồng, tùy hỷ những điều được khéo nói, khéo thuyết, khéo trình bày cùng nhau, thời sự kiện này sẽ xảy ra: họ sẽ sống hòa hợp, tán đồng, tùy hỷ với nhau, như nước với sữa, và nhìn nhau với cặp mắt tương ái..[8]

Ở đây, đức Phật nói: ‘ta thuyết giảng tùy theo pháp môn’ có ý nghĩa là đức Phật nói pháp không phải tùy tiện, mà phải căn cứ vào trình độ và sự hiểu biết của đối tượng và nhất là trình bày vấn đề đó trong trường hợp nào. Do vậy, sự trình bày này chỉ có giá trị đối với đối tượng đó và trong trường hợp đó và có thể sẽ không có giá trị trong trường hợp khác, với đối tượng khác. Để hiểu rõ hơn, chúng ta có thể lấy một ví dụ cụ thể trong “ Kinh Trung bộ”; có hai kinh đức Phật nói về nghiệp, đó là ‘Kinh Tiểu Nghiệp Phân Biệt’ (Cèla kamma vibhanga sutta) số 135[9](viết tắt là TNPB) và ‘Kinh Đại Nghiệp Phân Biệt’ (MahŒ kamma vibhanga sutta) số 136[10] (viết tắt là ĐNPB) nhưng đức Phật trình bày nội dung tư tưởng của hai kinh này khác nhau. Trong kinh TNPB, đức Phật dùng những hình ảnh tốt và xấu của thế gian, để giải thích mối quan hệ nhân quả trong đạo Phật, chẳng hạn như nói người bố thí thì được giàu có, người sát sinh thì có cuộc sống ngắn ngủi v.v..; có nghĩa là lấy sự giàu có, sống lâu làm thước đo hạnh phúc đồng thời xem sự nghèo khổ, đời sống ngắn ngủi làm tiêu biểu cho sự bất hạnh. Nếu đó là sự thật thì chúng ta thử đặt vấn đề, phải chăng người nào giàu có sống lâu là người ấy có hạnh phúc còn người nghèo khó, có đời sống ngắn ngủi là người không có hạnh phúc? Thực tế của cuộc sống không hẳn là như thế nhưng tại sao trong kinh này đức Phật lại giải thích như vậy? Phải chăng do vì con người ham thích sự giàu sang, sống trường thọ... cho nên đức Phật đã dựa và đó để lý giải đạo lý nhân quả, tạo niềm tin cho những hạng người này? Đây là một trong những vấn đề giáo dục mà chúng ta cần phải tìm hiểu.

Với kinh ĐNPB thì lại khác, đức Phật lấy vai trò ‘chánh kiến’ và ‘không chánh kiến’ làm thước đo cho hạnh phúc và không hạnh phúc của con người. Trong kinh này đức Phật giải thích, người nào có chánh kiến là người đó có hạnh phúc, và ngược lại người nào không có chánh kiến thì người đó sống trong đau khổ. Như vậy, vô minh là nhân của khổ đau, hạnh phúc là quả của đời sống có trí tuệ. Đây chính là mối quan hệ nhân quả nghiệp lực mà đức Phật muốn giải thích. Tại sao có sự sai khác này? Nếu chúng ta không để ý đối tượng mà đức Phật giáo dục thì chúng ta khó lý giải được vấn đề. Đối tượng mà đức Phật nói trong kinh TNPB là thanh niên Subha Todeyyaputta, là một cư sĩ tại gia, không am tường Phật pháp. Do đó, đức Phật không thể dùng những giáo pháp cao sâu, mà chỉ vay mượn những hình thức bên ngoài, như là giàu sang, tuổi thọ..., những gì mà Subha có thể hiểu được. cho nên đức Thế Tôn đã giảng giải nghiệp lực mang ý nghĩa như vậy. Nhằm khuyến khích chúng sanh làm điều lành lánh xa điều dữ, bỏ tà qui chánh, cho nên đức Phật đã giảng nội dung kinh Tiểu Nghiệp Phân Biệt, nhưng ngược lại, đối tượng đức Phật nói kinh ĐNPB là tôn giả A Nan và các vị tỷ kheo, là những người thông minh, am hiểu Phật pháp, cho nên đức Phật đã giải thích nghiệp lực căn cứ vào chánh kiến giải thích. Đó là lý do tại sao đức Phật nói nội dung hai kinh khác nhau.

Cũng vậy, trong kinh điển của Phật giáo Đại thừa thường được ghi chép rằng, khi đức Phật nói kinh điển Đại thừa thì các hàng Tiểu thừa Thinh văn liền rời khỏi pháp hội. Hiện tượng này, không những biểu lộ sự bất đồng về quan điểm giữa Đại thừa và Tiểu thừa, mà còn nói lên trình độ tu chứng và sự hiểu biết khác nhau. Có lẽ đây là lý do tại sao trong “Luận Đại Trí Độ” Bồ Tát Long Thọ (NŒgŒrjuna) đã đề cập đến Tứ Tất đàn (SiddhŒnta), là bốn phương pháp giáo dục khác nhau của Phật giáo Đại thừa. Thứ nhất là Thế giới tất-đàn, có nghĩa là căn cứ vào sự ưa thích của chúng sanh, nói những pháp gì làm cho họ cảm thấy vui vẻ để dắt dẫn chúng sanh vào đạo. Thứ hai, Các vị nhân tất-đàn, nhằm đáp ứng và thích nghi căn tánh và trình độ không đồng của chúng sanh mà nói những pháp khác nhau. Thứ ba, Đối trị tất-đàn, có nghĩa là y cứ vào căn tánh cá biệt của mỗi chúng sanh, nói những pháp tương xứng để đối trị, như người có lòng sân hận, nói pháp từ bi cho họ. Thứ tư, Đệ nhất nghĩa tất-đànlà trình bày chỉ rõ thật tướng của các pháp, cho chúng sanh giác ngộ chân lý.

Nói tóm lại, tứ tất-đàn là bốn phương pháp giáo dục khác nhau của Phật giáo. Có nghĩa là tùy theo căn cơ trình độ hay bối cảnh xã hội khác nhau của con người mà đạo Phật hình thành phương pháp giáo dục khác nhau, để thích nghi với từng con người và từng xã hội khác nhau. Sự hình thành bốn phương pháp này không phải là sự vụ lợi cho Phật giáo mà là sự lợi ích cho chúng sanh và xã hội. Ở đây, chúng ta nên lưu ý rằng bất cứ hình thức giáo dục nào cũng chứa đựng ý nghĩa dẫn dắt chúng sanh hướng đến mục đích giác ngộ và giải thoát, nếu như mục đích này mất đi thì phương pháp giáo dục đó, không được xem là của đạo Phật.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
28/07/2018(Xem: 8734)
Đức Quan Thế Âm Bồ Tát, còn gọi là Đức Quán Thế Âm Bồ Tát, có khi còn gọi là Đức Phật Quan Âm, được Phật tử nhiều quốc gia Châu Á thờ phượng vì hạnh nguyện hóa hiện nhiều thân tướng để cứu độ chúng sanh. Riêng đối với Nhật Bản, nơi nhiều tông phái Tịnh Độ thịnh hành, hình tượng Đức Quan Âm hiện diện trong rất nhiều chùa, trong các tuyến hành hương, và trong văn học. Bạn chỉ cần đi vào bất kỳ ngôi chùa nào tại Nhật Bản, nhiều phần là bạn sẽ gặp tượng Đức Quan Âm, hoặc là nghìn tay nghìn mắt gọi là Senju Kannon (Thiên Thủ Thiên Nhãn Quan Âm), hoặc là một hóa thân của ngài là tượng Đức Chuẩn Đề 18 tay, nhưng thường gặp nhất là tượng Quan Âm Nam Hải trong bộ áo trắng. Chúng ta có thể đọc trong thơ của Basho (1644-1694) hình ảnh nhà thơ đứng nơi gác chuông Chùa Kannon (Quan Âm Tự) nhìn xuống núi, thấy mái ngói chùa trôi nổi trong các chùm mây hoa anh đào: Mái ngói Chùa Quan Âm trôi dạt xa trong mây của các chùm hoa anh đào.
27/07/2018(Xem: 6867)
Chúng tôi được Tiến sỹ Nguyễn Mạnh Hùng, Chủ tịch công ty sách Thái Hà thông báo về khóa tu tại chùa Cự Linh, tỉnh Hải Dương Thầy là khách mời của khóa tu trong buổi sáng và buổi chiều sẽ hướng dẫn thiền. Khóa tu có đến 600 bạn trẻ mà chủ yếu là học sinh trung học cơ sở và trung học phổ thông. Tôi là một trong số các bạn may mắn nhất của CLB yêu sách Thái Hà được đi cùng thầy Hùng. Thầy Hùng lái xe đưa chúng tôi đến một chương trình quá đặc biệt làm tôi vô cùng ấn tượng. “Khóa tu mùa hè.” Tại sao lại là mùa hè nhỉ? Câu hỏi này luôn vấn vương trong đầu tôi. Tại sao bây giờ ở rất nhiều chùa, các quý thầy, quý sư cô đều tổ chức khóa tu cho các bạn học sinh, sinh viên nhỉ? Tôi được biết, riêng thầy Hùng đã có hơn chục khóa tu mùa hè mời đến chia sẻ kiến thức, kinh nghiệm của mình và hướng dẫn thiền cho các bạn tu sinh rồi. Tôi giật mình nghĩ rằng mùa hè là mùa có nhiều ánh sáng mặt trời nhất, là mùa mà bắt đầu có nhiều loại cây bắt đầu kết trái, bởi thế nó mang lại nhiều năng lượn
27/07/2018(Xem: 10206)
Người không hiểu đặt câu hỏi “Tại sao cá đã bắt lên rồi lại đem thả, như thế có giả tạo không?; “Sao không đem tiền cho người nghèo mà đi cứu mấy con cá?” Chúng tôi xin phép được giải thích rõ hơn cho hành động Phóng Sinh: Cũng có những người thiếu hiểu biết và rất tiêu cực còn chê người là ngu vì họ nghĩ nên dùng tiền mua cá để đem cho nhà mồ côi, viện dưỡng lão, trại phong cùi hay người nghèo Phi Châu thì thực tế hơn v.v. Ngư phủ đi bắt cá lên bờ để bán cho người mua về giết rồi ăn thịt chúng. Nhưng thực tế có bán và ăn hết những thuỷ sản bị bắt lên bờ không, hay là sẽ còn thừa bị chết vì bắt lên nhiều quá làm cho một phần thặng dư chúng sanh sống trong nước bị chết uổng phí và chẳng được đóng góp thân thể của chúng để nuôi cho loài người được sống hạnh phúc; Hay chúng bị thúi rữa rồi đem bỏ?
26/07/2018(Xem: 7470)
Sự sợ hãi là tập tính của con người khi mà những gì bất lợi xảy ra thì kéo theo sự sợ hãi bị ảnh hưởng liên lụy tác động đến mình. Nhưng sợ hãi có mặt tích cực của nó trong vấn đề tu tập hành trì đạo pháp mà không phải ai cũng biết, sợ hãi là nếp tốt là đạo hạnh của sự lương thiện trong tâm hồn cao thượng. Vậy sự sợ hãi trong tu tập hành đạo như thế nào?
26/07/2018(Xem: 8332)
TUỆ TRÍ CỔ XƯA VÀ TƯ TƯỞNG HIỆN ĐẠI Nguyên tác: Ancient Wisdom and Modern Thought Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma, Mumbai 2011 Chuyển ngữ: Tuệ Uyển Tôi thật sự cảm thấy vinh dự lớn để nói chuyện với quý vị. Đặc biệt tại trường đại học, vì đây là trường Đại học Bombay rất nổi tiếng. Tôi luôn cảm thấy vui mừng khi gặp gở với các sinh viên. Tôi tin rằng thế hệ trẻ hơn – những người tuổi dưới 30 hay là 20 – là thế hệ thật sự của thế kỷ này, thế hệ có thể tạo nên một tình trạng mới cho thế giới này một lần nữa.
26/07/2018(Xem: 5833)
5h sáng. Sớm tinh mơ. Tôi đã thức dậy, mở toang hết cửa cổng để đón tất cả nhân duyên của ngày mới còn đang lãng vãng lân la bên ngoài vào nhà. Khu vực ngoại thành này, tầm 8h -9h vẫn còn yên tĩnh, còn nghe được tiếng chim ca, tiếng gà cục tác, huống hồ chỉ mới vào thời khắc đón ánh bình minh dịu dàng từ hướng Đông... Gian phòng thờ đã lên đèn. Ánh hào quang sau thánh tượng đức Phật rọi soi ấm áp huyền diệu. Hoa đăng, hương trầm, bánh trái đã thiết bày trên các bàn thờ theo đúng nghi lễ được Thầy hướng dẫn, căn dặn... Thầy đến trước giờ hẹn nửa giờ đồng hồ, mới 7h30, triệu thỉnh thêm thánh tượng đức Địa Tạng Vương Bồ Tát từ chùa Tịnh Quang mà Thầy trú trì, để thiết trên bàn đặt giữa chính môn. Nửa giờ sau, thêm một thầy nữa quang lâm, thầy
24/07/2018(Xem: 6494)
Sinh ra ở cõi đời này, dù được sống trong vui vẻ hạnh phúc nhiều như thế nào đi nữa, thì cũng sẽ có lúc chúng ta cảm thấy cuộc sống thật là vô vị, bởi những chuyện không vừa ý cứ dồn vập đổ tới khiến chúng ta vô cùng chán nãn. Những lúc như thế chúng ta thường hay oán Trời trách đất, hay oán hận những người xung quanh đã gây bao nhiêu điều phiền muộn đau khổ cho chúng ta. Chúng ta trách tại sao trước mắt chúng ta có những người quá hạnh phúc, không phải lo toan điều gì, mới sanh ra đời đã được ở trong cảnh giàu sang nhung lụa, lớn lên lập gia đình cũng được sống trong cảnh sung sướng, lên xe xuống ngựa, kẻ hầu người hạ. Riêng chúng ta thì đầu tắt mặt tối, cực khổ vô cùng mà cơm không đủ no, áo không đủ mặc.
22/07/2018(Xem: 8801)
Thái Lan: Các cầu thủ đội bóng Heo rừng sẽ xuất gia 12 cầu thủ đội bóng “Heo rừng” và huấn luyện viên của họ đã được cứu thoát sau khi bị mắc kẹt 18 ngày trong một hang động ở Thái Lan, có khả năng sẽ xuất gia hạn định để bày tỏ sự kính trọng đối với Saman Kunan, cựu Hải quân Thái SEAL đã hy sinh trong nhiệm vụ giải cứu đội bóng.
22/07/2018(Xem: 6956)
Người con Phật nghĩ gì về án tử hình? Đứng về phương diện cá nhân, rất minh bạch rằng không Phật tử nào ủng hộ án tử hình. Đứng về phương diện quốc gia, thực tế là rất nhiều quốc gia -- nơi Phật giáo gần như quốc giáo, như Thái Lan, Miến Điện, Sri Lanka… -- vẫn duy trì và thực hiện án tử hình. Tại Thái Lan, án tử hình dùng để trừng phạt cho 35 tội hình sự, trong đó có tội sát nhân và buôn ma túy. Miến Điện cũng thế. Điểm hay là ở chỗ, hai quốc gia này tuyên án tử hình, nhưng rất ít khi thi hành án tử. Các quốc gia có đông dân số Phật tử -- như Trung Quốc, Việt Nam, Nhật Bản, Singapore, Đài Loan… -- vẫn áp dụng án tử hình, và thường xuyên thi hành án tử.
20/07/2018(Xem: 6402)
Xã hội tân tiến ngày nay, đã khiến cho con người không còn sống trong sự bình thản như ngày xưa, bởi vì nền văn minh kỹ thuật cơ khí, điện tử đã lôi cuốn người ta gia nhập và chạy đua với thời gian. Cái gì cũng phải nhanh, phải vội, cuộc sống bon chen, không ai chờ đợi ai.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]