Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

6. Giá trị học thuyết nghiệp đối với con người và xã hội

10/04/201111:20(Xem: 12522)
6. Giá trị học thuyết nghiệp đối với con người và xã hội

TÌM HIỂU PHẬT GIÁO NGUYÊN THỦY

Thích Hạnh Bình

Phần 2

QUAN ÐIỂM NGHIỆP TRONG PHẬT GIÁO NGUYÊN THỦY

III.QUAN ÐIỂM NGHIỆP TRONG A HÀM HAY NIKÀYA

6. Giá trị học thuyết nghiệp đối với con người và xã hội

Trong kinh Tạp A Hàm, đức Phật dạy:

Pháp duyên khởi không phải là pháp do ta tự tạo ra, cũng khôngphải do người khác tạo ra. Như Lai có xuất hiện ở đời hay Như Lai không xuất hiện ở đời, thế gian vẫn vận hành theo nguyên tắc duyên khởi này...”[90].

Ðây là lời đức Phật xác định giá trị của pháp duyên khởi, nó là quy luật tự nhiên của vũ trụ, dù đức Phật có nói hay không nói thì quy luật này vẫn tồn tại và mọi vật vận hành theo quy luật này, đức Phật chỉ là người đầu tiên khám phá qui luật này mà thôi. Có thể nói, không những chỉ có giáo lý Duyên khởi mà hầu như toàn bộ giáo lý của ngài đều mang đặc tính như thế[91], nếu chúng ta nghiên cứu một cách nghiêm túc sẽ thấy điều đó. Chẳng qua, công tácï truyền bá giáo lý của ngài đến với tất cả mọi tầng lớp nhân dân trong mỗi xã hội, mỗi thời đại khác nhau, do vậy lời dạy trong sáng của ngài dần dần cũng bị đồng hóa những tín ngưỡng, những phong tục tập quán của dân gian, đây là điểm mà chúng ta cần lưu ý. Ðạo Phật tuy tồn tại dưới hình thức tôn giáo, nhưng đạo Phật Nguyên thủy vốn không chấp nhận một niềm tin mù quáng, phủ nhận quyền năng của bất cứai, cho dù đó là đức Phật hay Thượng đế. Ðức Phật luôn luôn đề cao vai trò và trách nhiệm cá nhân, sự thành đạt hạnh phúc hay đọa lạc trong khổ đau đều do con người lựa chọn và quyết định [92], ngài xác nhận rằng, ngài chỉ là vị đạo sư [93] hay là vị lương y [94] mà thôi. Có thể nói lời đức Phật nói ra là sự kết tinh của quá trình suy tư và kinh nghiệm của cuộc sống con người, là những quy luật hay nguyên tắc sống. Ðiều đó có một ý nghĩa sâu sắc là lời ngài dạy có mối quan hệ mật thiết với cuộc sống hằng ngày của chúng ta, nó không phải là những lý thuyết suông vô tác dụng, ngược lại rất thực tế. Do vậy, những ai cần có một cuộc sống bình an và hạnh phúc cho bản thân và xã hội không thể tách rời quan điểm của đạo Phật, cho dù người đó đứng dưới góc độ nào trong xã hội.

a- Học thuyết nghiệp là định hướng xây dựng đời sống hạnh phúc cho con người

Người có ý thức về nghiệplà người có ý thức về đạo đức, người có ý thức về đạo đức là người biết tôn trọng cuộc sống, người biết tôn trọng cuộc sống là người biết lựa chọn cuộc sống hạnh phúc.

Là con người, ai cũng tham sống sợ chết, muốn sống một cuộc sống có hạnh phúc. Thế nhưng, làm thế nào để vươn tới cuộc sống hạnh phúc? Có thể nói, nó đều tùy thuộc vào khả năng của sự hiểu biết và cách hành xử của con người, có nghĩa là con người có thấu triệt được kết quả của những hành vi mà con người đã làm đang làm hay sẽ làm hay không. Sự hiểu biết đó là điều kiện tất yếu để quyết định cuộc sống hiện tại hay tương lai của chúng ta có được hạnh phúc hay không. Tất nhiên, đạo Phật không phủ nhận hạnh phúc của thế gian, như hạnh phúc trong sự cờ bạc, rượu chè hay trong những thú vui khác.v.v... vì trong cờ bạc, rượu chè... có những thú vui riêng của nó, cho nên con người mới đam mê về nó. Nhưng ở đây, vấn đề mà đạo Phật đề cập đến hạnh phúc không phải là những loại hạnh phúc này, chính là sự hạnh phúc chân thật và lâu dài, hạnh phúc đó không làm ảnh hưởng đến hạnh phúc của người khác, hay trong hạnh phúc không có bóng dáng và sự rình rập của khổ đau và sợ hãi. Phật giáo gọi nó là hạnh phúc chân thật. Như vậy, hạnh phúc chân thật này bắt nguồn từ đâu? Tất nhiên câu trả lời ở đây là sự ý thức về nghiệp, ý thức về nghiệplà ý thức về nhân quả, là sự phân biệt, lưa chọn giữa cái đúng và cái sai, hay nói một cách chính xác là hành vi có chánh kiến. Hành vi có chánh kiến là yếu tố dẫn đến hạnh phúc chân thật. Ví như, một người muốn có một đời sống tương lai không rơi vào trường hợp nghèo khổ. Ðiều kiện tất yếu của người đó là ngay từ bây giờ người ấy phải nỗ lực trong việc học tập nghề nghiệp chuyên môn, thâu thập kinh nghiệm. Với tay nghề tinh xảo, vốn kiến thức chuyên môn và phong phú, nó sẽ là yếu tố quyết định công việc tốt cho người ấy trong tương lai. Quá trình học tập, thâu thập kinh nghiệm và công việc làm tốt là mối quan hệ tất yếu giữa nhân và quả. Niềm vui của công việc làm tốt không ảnh hưởng đến hạnh phúc người khác, đó là ý thức đúng về nghiệp. Một ví dụ khác, một kẻ đam mê cờ bạc rượu chè thường tìm cầu niềm vui trong lúc cờ bạc hay rượu chè, nhưng sự thua lỗ về tiền bạc, những hành vi bất thiện xảy ra sau khi uống rượu là những kết quả không lành, nó không những làm khổ cho mình mà còn làm khổ cho người khác, đó là hành vi thiếu ý thức về nhân quả nghiệp báo.Niềm vui của cờ bạc rượu chè chỉ tồn tại trong giây phút thật ngắn ngủi, nhưng nỗi khổ cho mình và cho người khác thì vô cùng, nếu ta đem hai niềm vui này so sánh, người trí không ai lại chọn niềm vui ngắn ngủi, từ chối niềm vui lâu dài, lao đầu vào khổ đau, nhưng khốn nỗi con người chỉ thấy được cái lợi trước mắt, không thấy cái lợi lâu dài. Hành vi cờ bạc rượu chè là hành vi làm khổ cho mình cho người, là mối quan hệ nhân quả bình đẳng và tất yếu. Nỗi khổ là điều không ai thích nhưng nó vẫn đến với con người, vì con người thiếu chánh kiến, không thấy được luật nhân quả nghiệp báo của đạo Phật. Một người hiểu rõ học thuyết nghiệptrong Phật giáo, là người thấy rõ mối quan hệ nhân quả, người thấy rõ nhân quả là người không làm các việc bất thiện, vì hành vi bất thiện là nguyên nhân dẫn đến khổ đau. Do vậy, con người muốn có hạnh phúc lâu dài cần thấu rõ và áp dụng học thuyết nhân quả ngay trong cuộc sống, nó là nền tảng của đạo đức đưa con người đến thế giới chân thật hạnh phúc.

b-Học thuyết nghiệp là nền tảng xây dựng một xã hội lành mạnh và đạo đức

Ở đây, chúng ta có thể mượn câu: “Tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”[95] của nhà Nho để nói lên mối quan hệ giữa học thuyết nghiệpđối với việc xây dựng một đời sống trật tự xã hội của đạo Phật.

Sự tồn tại một cộng đồng xã hội không thể tách rời sự tồn tại của từng thành viên trong xã hội ấy. Như vậy, muốn có một xã hội trật tự không thể tách rời đời sống có đạo đức của từng cá nhân trong xã hội ấy. Mỗi thành viên có nếp sống tốt, biết thi hành bổn phận và trách nhiệm của mình đối với gia đình và xã hội là yếu tố cơ bản để hình thành một xã hội lý tưởng. Thế nhưng bản chất con người vốn sẵn có lòng tham lam, sân hận và si mê, nó là động cơ gây ra mọi rối loạn xã hội. Thế thì làm thế nào để ngăn chận những hành vi bất hợp pháp xảy ra? Theo người viết, vấn đề giáo dục được xem là yếu tố quan trọng để giải quyết vấn đề. Giáo dục gồm có nhiều hình thức khác nhau, ở đây chúng ta tạm phân chia thành hai hệ thống giáo dục: Hệ thống giáo dục của quốc gia và hệ thống giáo dục của tôn giáo. Trong phạm vi bài viết này, tôi không đề cập đến hệ thống giáo dục quốc gia, chỉ đề cập đến vai trò giáo dục của tôn giáo, cụ thể là Phật giáo.

Có thể nói, luật pháp xã hội chỉ là biện pháp ngăn chặn những hành vi phi pháp khi nó được thể hiện cụ thể bằng hành động, nhưng luật pháp khó có thể ngăn chặn những suy nghĩ bất chính từ trong tâm thức của con người. Một hành vi phi pháp được thể hiện bằng hành động cụ thể bên ngoài là kết quả của sự suy tư bất chính từ bên trong tâm thức; nói cách khác, ý thức là chủ nhân của hành động. Thế thì làm thế nào để con người có thể phát hiện và khống chế những suy tư bất chính ấy? Tôi cho rằng, công tác giáo dục của tôn giáo giữ vai trò then chốt trong việc ngăn chặn những suy tư bất chính ấy. Vì mục tiêu của tôn giáo là hướng con người đến một thế giới Thiên đường, Cực lạc hay Niết bàn là thế giới không có khổ đau của tôn giáo, nó cuộc sống chỉ có hạnh phúc, là thế giới lý tưởng mà con người ước mơ, vì thế giới mà con người đang sống là thế giới bất toàn, nó luôn luôn tồn tại những điều không vừa ý, ẩn hiện những khổ đau, đó là lý do con người muốn vươn tới thế giới an lành của tôn giáo.

Ðiều kiện để con người đạt đến thế giới ấy, theo mỗi tôn giáo có những qui định riêng, nhưng cho dù như thế nào đi nữa, điều kiện cơ bản vẫn là răn dạy con người không làm các hành vi bất thiện, thực hiện các hạnh lành. Vấn đề thế giới Thiên đường hay Cực lạc có hay không có, đó là vấn đề của tôn giáo, của niềm tin con người, nó có hay không vẫn không có tác hại gì đến xã hội, mà ngược lại có tác động tích cực và trực tiếp trong việc xây dựng một xã hội trật tự lành mạnh và đạo đức, do vậy chúng ta không cần thảo luận vấn đề này ở đây. Vấn đề mà chúng ta cần được đem ra thảo luận là những qui định về cuộc sống của tôn giáo có giúp ích gì cho vấn đề trị an, xây dựng đạo đức cho xã hội hay không? Riêng đạo Phật, định nghĩa chữ Niết bàn là sự chấm dứt lòng tham lam, sân hận và si mê (Kinh Tạp A Hàm), điều kiện để loại trừ lòng tham sân si này cần phải thực hành giới luật, tu tập thiền định và phát huy trí tuệ. Ở đây tinh thần giới luật của đạo Phật là những nguyên tắc sống lành mạnh của một nếp sống cộng đồng, trong đó bao gồm những qui định đạo đức của xã hội; Mục đích của thiền định là giúp cho con người tập trung tư tưởng, vì đức Phật cho rằng, một trong những nguyên nhân làm cho con người thất bại trong công việc là thiếu chú tâm cảnh giác khi làm việc, do vậy sự chú tâm giúp cho con người thành đạt công việc, là nguyên nhân để dẫn đến hạnh phúc; trí tuệ là cái thấy và biết đúng như sự thật, có nghĩa là sự nhìn thấy mối quan hệ nhân và quả một cách rõ ràng, cũng có nghĩa là hiểu rõ về nghiệp. Như vậy, giáo lý Phật giáo nói chung hay giáo lý nghiệpnói riêng là nền tảng cơ bản để đóng góp cho việc giữ gìn trật tự, xây dựng nếp sống có đạo đức cho xã hội. Do vậy, việc phát huy tinh thần giáo dục Phật giáo là một nhu cầu cần thiết cho xã hội, nó là vũ khí sắc bén để loại trừ suy nghĩ bất chính từ trong tâm thức của con người, là người bạn đồng hành của chính sách quốc gia trong công tác phòng chống nạn tệ đoan xã hội.

Mùa hè năm 2002


[47]HT. Minh Châu dịch, “Kinh Trung Bộ” tập 1, “Kinh Tất Cả Lậu Hoặc”, Viện NCPHVN ấnh hành, 1992.

[48]Trừ “Ma Ha Tăng Kỳ luật” của Ðại chúng bộ không đồng ý, ngoài ra, tất cả những bộ luật khác thuộc Thượng toạ bộ đều cho rằng, “Mười việc là phi pháp”.

[49]Viện CÐHÐNT dịch, “Kinh Trung A Hàm” tập 4, “Kinh Tiễn Dụ”, trang 737-747, Viện NCPHVN ấn hành, 1992.

[50]Viện CÐPH HÐNT dịch, “Kinh Trường A Hàm” tập 2, “Kinh Thế Ký”, trang 263-518, Viện NCPHVN ấn hành, 1991.

[51]HT. Minh Châu dịch, “Kinh Trung Bộ” tập 3,viện NCPHVN ấn hành, 1992.

[52]Viện CÐPHHÐNT dịch, “Kinh Trung A Hàm” tập 3, Viện NCPHVN ấn hành, 1992.

[53]Như chú thích 53.

[54]Như chú thích 54.

[55]Lữ Trưng, “Ấn Ðộ Phật học tư tưởng khái luận” trang 11, Ðài Bắc, NXB Thiên Hoa, 1993.

[56]Như chú thích 57.

[57]“Kinh Tạp A Hàm” kinh số 548; 592; 1146.

[58]F. Max Mulier dịch “The Upanisads” (The Sacred Books of The East. Vol.15) trang 85, Delhi 1995.

[59]Tham khảo:“Kinh Tạp A Hàm” kinh số:154, 155, 156, 157, 158, 159, 162, 163, 164, 165, 559; “Kinh Trường A Hàm” gồm 2 kinh: “Kinh Phạm Ðộng” và “Kinh Sa-môn Quả”, tương đương kinh tạng Pàli là “Kinh Phạm Võng” và “Kinh Sa-môn Quả” trong “Kinh Trường Bộ”.

[60]VCÐPHHÐNT dịch,“Kinh Trung A Hàm” tập 4, “Kinh Tiễn Dụ”, trang 737-747, VNCPHVN ấn hành, 1992.

[61]HT.Minh Châu dịch, “Kinh Ví Dụ Con Rắn” trong “Kinh Trung Bộ”, (Trường CCPHVN ấn hành,1986)

[62]“Kinh Tap A Hàm” kinh số 760, (ÐCT2, tờ 199b-200a.)

[63]HT. Minh Châu dịch, “Tương Ưng I”. “Phẩm Quần Tiên” trang 64-68 và 245.VNCPHVN ấn hành. Kinh này mô tả khi đức Thế Tôn bị một miếng mẻ đá đâm, thân thể của ngài đau nhức vô cùng.

[64]HT. Minh Châu dịch, “Kinh Trung Bộ” tập 1, trang 20. Ðức Phật dạy: Này các Tỷ-kheo! Do không như lý tác ý, các lậu hoặc chưa sanh được sanh khởi, và các lậu hoặc đã sanh được trừ diệt.

[65]“Kinh Trung Bộ” tập 1, trang 20. Ðức Phật dạy: Này các Tỷ-kheo! Do như lý tác ý, các lậu hoặc chưa sanh không sanh khởi, các lậu hoặc đã sanh được trừ diệt.

[66]4 niềm tin bất động bao gồm: Tin Phật, tin Pháp, tin Tăng và tin Giới.

[67]HT. Minh Châu dịch, “Kinh Trung Bộ” tập III, “Kinh Tiểu Nghiệp Phân Biệt”, trang 474, VNCPHVN ấn hành, 1992.

[68]Viện CÐPHHÐNT dịch, “Kinh Trung A Hàm” tập 4, trang 137, Viện NCPHVN ấn hành, 1992

[69]“Kinh Trung A Hàm” tập 4, “Kinh Ðộ”, trang 117, VNCPHVN ấn hành, 1992.

[70]“Kinh Trung Bộ” III, trang 475.

[71]“Kinh Trung Bộ” III, trang 475-476.

[72]Như trên, trang 747.

[73]Như trên, trang 477-478.

[74]“Kinh Trung Bộ” III, trang 474.

[75]“Kinh Trung Bộ” III, trang 483-498.

[76]Như trên, trang 484.

[77]HT. Minh Châu dịch, “Kinh Trung Bộ” I, trang 20, VNCPHVN ấn hành, 1992.

[78]“Kinh Trung Bộ” III, trang 487.

[79]“Kinh Trung Bộ” III, trang 488.

[80]HT.Minh Châu dịch,“Kinh Trung A Hàm” ‘Kinh Tư’, trang 137, VNCPHVN ấn hành, 1992.

[81]HT. Minh Châu dịch “Kinh Trung Bộ” III, “Kinh Ða Giới”, đức Phật dạy: “Phàm có sợ hãi gì sanh khởi, này các Tỷ-kheo, tất cả những sợ hãi ấy chỉ sanh khởi ở người ngu không phải cho người hiền trí (pandita). Phàm những thất vọng gì sanh khởi, này các Tỷ-kheo, tất cả những thất vọng ấy chỉ sanh khởi ở người ngu không phải cho người hiền trí.Phàm những hoạn nạn gì sanh khởi, này các Tỷ-kheo,tất cả những hoạn nạn ấy chỉ sanh khởi ở người ngu không phải cho người hiền trí ”.

[82]Lữ Trưng, “Ấn Ðộ Phật học tư tưởng khái luận” (Ðài Bắc, NXB Thiên Hoa, 1993, trang.13)

[83]HT. Minh Châu dịch“Kinh Trung Bộ, “Tiểu kinh Khổ Uẩn” (TCCPHVN ấn hành,1986, trang.156.)

[84]Như trên ( P.157).

[85]Xin tham khảo, “Kinh Tạp A hàm” kinh số 912,262 hay “Kinh Trung Bộ” số 75.

[86]“Kinh Trung A Hàm” “Kinh Ưu Ba Ly” số 133. (ÐCT 1, p.828a-b.)

[87]Trần Tuấn Oai ,“Vô ngã và Luân hồi”, NXB Viên Quang, 1997, trang 2.

[88]HT. Minh Châu dịch “Trung Bộ kinh”, “Tiểu kinh Saccaka”, (TCCPHVN ấn hành, 1986,pp.352-365).

[89]“Kinh Tạp A Hàm”, kinh số 335, ÐT 2, trang.92c.

[90]“Kinh Tạp A Hàm”, kinh số 299, (ÐT 2, p.85b).

[91]HT. Minh Châu dịch “Kinh Tương Ưng” tập I, “Phẩm Vườn Hoan Hỷ” trang 27, VNCPHVN ấn hành. Trong kinh này đức Phật nói: “Pháp này thuộc hiện tại, không bị thời gian chi phối, đến để thấy, có khả năng hướng thượng, chỉ người trí mới chứng hiểu.”

[92]Xem “Kinh Tạp A Hàm”, (kinh số 36,638,639). Phật dạy: “Này Anada! Hãy tự mình làm hòn đảo, và tự nương tựa chính mình. Lấy pháp làm hòn đảo, làm nơi nương tựa, đừng lấy chỗ nào khác làm nơi nương tựa, làm hòn đảo, đừng nương tựa nơi nào khác” .

[93]Xem “Kinh Tạp A Hàm”, kinh số 271.

[94]Xem “Kinh Tạp A Hàm”, kinh số 552,389.

[95]Phùng Hữu Lan, “ Trung Quốc triết học giản sử” NXB Lãm Ðăng, 1993.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
02/12/2020(Xem: 5716)
Bà Thái Việt Phan, người vừa được bầu vào Hội đồng Thành phố Santa Ana, đã sửng sốt khi nhận được thư cảnh báo từ từ ngôi già lam tự viện Phật giáo mà bà từng lui tới. Chùa Hương Tích đã bị xịt sơn và cảnh sát Thành phố Santa Ana đã coi đây là một tội ác gây ra bởi sự thù địch. Đây là ngôi tự viện Phật giáo thứ sáu bị xịt sơn trong khu vực chỉ trong tháng vừa qua.
02/12/2020(Xem: 8789)
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật - Trong tâm tình: ''Lắng nghe để hiểu- Nhìn lại để thương'', chúng con, chúng tôi đã thực hiện một buổi phát quà cứu đói cho 294 hộ tại 2 ngôi làng nghèo có tên là Dugarpur & Amobha cách Bồ Đề Đạo Tràng chừng 8 cây số. Xin mời quí vị hảo tâm xem qua một vài hình ảnh tường trình.. Thành phần quà tặng cho mỗi hộ gồm có: 1 tấm Saree, 10 ký Gạo và bột Chapati, đường, muối dầu ăn và bánh ngọt cho trẻ em, kèm với 200Rupees tiền mặt để mua thêm gạo cho từng hộ GD.(Bên cạnh đó là những phần phụ phí như mướn xe chở hàng, tiền công đóng gói và công thợ khuân vác, tiền quà cho những người bảo vệ và sắp xếp trật tự tại nơi phát chẩn.)
01/12/2020(Xem: 6094)
Cư sĩ Keith Dowman sinh năm 1945, gốc người Anh, tinh hoa Phật giáo, một vị giáo thụ giảng dạy Thiền Đại Viên Mãn (Dzogchen; 大圓滿), theo truyền thống Ninh Mã, Phật giáo Kim Cương thừa, Mật tông Tây Tạng, dịch giả các kinh điển Phật giáo Tây Tạng. Cư sĩ Keith Dowman đang cư ngụ tại Kathmandu, Nepal, nơi ông đã sống trong 25 năm. Các bản dịch của ông từ tiếng Tây Tạng.
30/11/2020(Xem: 5552)
“Cảm ơn đời mỗi sớm mai thức dậy Ta có thêm ngày nữa để yêu thương” Cảm ơn vì sáng nay tôi còn nghe được tiếng nói, tiếng cười của người thân, bạn bè. Nhìn xuyên qua khe cửa, lá trên cây đã bắt đầu đổi màu, biến những hàng cây xanh ngày nào thành một bức tranh hỗn hợp nhiều sắc màu. Vài cơn gió lành lạnh lại bắt đầu thổi về mang theo bao hồi ức vui buồn lẫn lộn. Tôi lặng lẽ ngồi đây như ngồi giữa thiên đường của thời xa xưa ấy. Tôi luôn biết ơn sâu sắc đến quý Phật tử xa gần đã hỗ trợ và đồng hành cho NVNY trong suốt chặng đường 5 năm qua. Nhất là những thiên thần đáng yêu tại Las Vegas, sớm hôm luôn bay về nâng đỡ cho Ni Viện khi cần. Năm 5 về trước, lần thứ tư tôi đặt chân đến đất nước xinh đẹp vĩ đại này. Tôi tận hưởng vẻ đẹp của những cánh đồng bất tận, nơi an nghỉ của ánh sáng mặt trời, nơi các đóa hoa tỏa hương thơm vào không gian; và tôi khám phá các ngọn núi tuyết cao sừng sững hiên ngang giữa trời đất, ở đó tôi tìm thấy sự thức giấc tươi mát của mùa Xuân, lòng kh
29/11/2020(Xem: 6618)
Cư sĩ Rob Nairn, vị Luật sư, Thẩm phán Trẻ tuổi nhất tại Rhodesia, Giáo sư Phật học uyên thâm, tác giả, nhà nghiên cứu dân số. Ông sinh ra và lớn lên tại Rhodesia. Ông là môn đồ của Phật giáo Kim Cương Thừa Mật tông Tây Tạng, thuộc dòng truyền thừa Karma Kagyu. Cư sĩ Rob Nairn, người đại diện cho Hòa thượng Tiến sĩ Akong Rinpoche tại Châu Phi (Chöje Akong Tulku Rinpoche,1939-2013, người sáng lập Tu viện Samye Ling Scotland), với trách nhiệm giảng dạy 11 Trung tâm Phật học tại bốn quốc gia Châu Phi. Mục tiêu của ông là giảng dạy thiền và Phật giáo Tây Tạng cho tất cả những ai yêu mến đạo Phật, cũng như ở cấp độ đại học và hậu đại học ở các quốc gia như Vương quốc Anh, Ireland, Châu Phi và Hoa Kỳ thông qua các trường Đại học và các Trung tâm Phật học.
28/11/2020(Xem: 5439)
Chàng vẫn thường chê tôi, chỉ giỏi phân tích sự kiện chứ không có đầu óc tổng hợp. Được rồi! Hôm nay tôi sẽ tổng hợp tất cả các bài Pháp của các Vị nói về đề tài nóng bỏng đang thiêu đốt các dân cư mạng, chỉ một bài hát thôi mà số người lướt sóng lên đến hàng chục triệu lần. Chẳng là gì cả, chỉ câu truyện tình liên quan đến chốn Thiền Môn, chàng là ông Thầy Tu, nàng là cô Quận Chúa. Thuở bé nàng vẫn thường theo cha đến Chùa, Tể tướng thì đàm đạo với Đại Hòa Thượng, tiểu thư "nhí" chơi đùa với "tiểu" Hòa Thượng, hay mua kẹo Hồ Lô tặng chú tiểu, cũng một loại "Tình yêu đi qua bao tử". Thế rồi thời gian thấm thoát thoi đưa, sau mười năm cặp đôi này trở thành một đôi trai thanh gái tú. Nàng đòi ở luôn trong Chùa, nhất định không chịu về, Chàng Thầy tu phải đuổi về vì phạm giới luật của một Chùa Tăng. Thế là Nàng ra đi để rồi mất dấu chân chim, một thời gian sau nghe tin Nàng tự vẫn vì bị tên Thái Tử háo sắc làm nhục.
26/11/2020(Xem: 5272)
Chín năm về trước, trang báo điện tử Phật giáo Indonesia “BuddhaZine” đã cùng nhịp bước với thời đại của thế giới thông tin truyền thống với sự tiến bộ của công nghệ internet. Sự hiện diện của “BuddhaZine” như một phương tiện truyền thông Phật giáo trực tuyến, phù hợp với sự phát triển của công nghệ truyền thông hiện đại, bước sang thiên niên kỷ mới này đã quen thuộc với thế hệ trẻ thanh thiếu niên, và đã được sự hoan nghênh đón nhận của cộng đồng Phật giáo và cư dân mạng, trên hành trình khiến “BuddhaZine” trở thành một tổ chức truyền thông quan trọng, và phát triển “Phật pháp với Nhân sinh” (Buddha Dharma, 佛法與人生), trong cộng đồng trên đất nước vạn đảo này.
26/11/2020(Xem: 9734)
“Tinh thần Dân chủ Nhân dân đã trở thành một phần, không thể tách rời trong phạm vi cuộc sống của nhân loại trên hành tinh này. Điều đó có thể nói là đã ngấm vào tận xương tủy của con người. Nhìn từ sự phát triển của một quốc gia, hay một đất nước phát triển, trên nền tảng chính trị do đa số người dân sống ở một vùng, miền nào đó thực hiện”. Sự phát triển chính trị năng động, cho phép một quốc gia phát triển với tốc độ nhanh. Nói đến Dân chủ, chúng ta cần phải hiểu rằng, Dân chủ thực sự mang lại cho con người quyền tự do biểu đạt, bày tỏ ý kiến, quan điểm, ý tưởng, chính quyền do nhân dân lựa chọn, phản ánh sự lựa chọn của nhân dân, nhà nước do nhân dân làm chủ. Mục đích của Dân chủ là đạt được công lý bình đẳng cho tất cả công dân thông qua sự trung thực, bình đẳng và bình đẳng chính trị.
26/11/2020(Xem: 6741)
Từ hơn chục năm qua tôi vẫn tận dụng từng giờ trong ngày còn lại để nghe pháp, học pháp và chiêm nghiệm về những lời dạy của Cổ nhân hay Giảng Sư sau thời gian cần phải có và cần thiết cho nhu cầu trong đời sống con người.
25/11/2020(Xem: 5878)
Trưởng lão Hòa thượng Napane Pemasiri Thero, Tăng thống Giáo hội Phật giáo Rāmañña Nikāya (රාමඤ්ඤ නිකාය) Sri Lanka, một trong những bậc thạch trụ tòng lâm, cao tăng Phật giáo Nguyên Thủy vừa viên tịch vào ngày 17 tháng 11 năm 2020. Hưởng Thượng thượng thọ 98 xuân. Lễ Quốc tang được tôn trí tại Tòa Nhà Hội Nghị Quốc Tế Bandaranaike (Bandaranaike Memorial International Convention), thành phố Colombo. Lễ truy điệu, trà tỳ hỏa táng vào ngày 22 tháng 11 năm 2020.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]