Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

8. Tin Tưởng

25/02/201116:59(Xem: 5303)
8. Tin Tưởng

THỬ HÒA ĐIỆU SỐNG
Võ Đình Cường

TIN TƯỞNG

Chúng ta không nên quá lạc quan, cũng không nên bi quan. Nhưng bao giờ cũng tin tưởng ở bản năng tự vệ và trực giác hướng đến hạnh phúc của loài người.

Em van anh, hãy tìm cho em một nơi an nghỉ. Cuộc thế bạo tàn và gian lận đã giựt xé của em bao nhiêu là hương sắc. Và tâm hồn trong trắng đầy tin yêu, mới ngày nào đã bị dày xéo tả tơi dưới gót đời nhơ bẩn. Ôi hãi hùng và ghê tởm! Trong mỗi cỗ bàn, đôi đũa gắp vào đâu cũng toàn thịt xương của đồng loại. Và trên sân khấu đời, giả dối đang đội lớp chân lý, áp bức đang mang mặt nạ tự do. Và hạnh phúc mong manh không phủ kín nổi với màn tuynh, địa ngục trên dương thế. Công bằng và bác ái là hai danh từ không tìm ra thực chất của chúng trong những hành động hàng ngày. Một mặt, người ta bắn giết nhau, một mặt người ta lừa đảo nhau. Có lẽ nhân loại đã đến ngày tàn lụn. Anh hãy kể cho em, có một thời đại nào sự sát hại nhau lên đến một độ khủng khiếp như bây giờ, một giai đoạn lịch sử nào, tiếng đau thương và oán hận nức nở khắp mấy chân trời, mà tiếng bom đạn không làm sao lấn ác nổi. Bầy quạ đen nghịt đã tung cánh chiếm đoạt bầu trời, nhân loại đang thoái hoá dần dưới bóng tối dày của bầy ác điểu.

Em van anh, hãy chỉ cho em nơi nào có thể xa lánh được cảnh tượng tủi nhục của loài người hung tàn đang xâu xé nhau trong chợ đời náo nhiệt.

Em sẽ được yên nghỉ! Đôi mắt hãi hùng của em chứng tỏ rằng em đang ở trong một cơn ác mộng. Và đôi tay rướm máu kia đủ mách với anh rằng em vừa vướng phải rất nhiều mũi gai đời. Thôi, em hãy tạm yên nghỉ để lấy lại sức lực trước khi sửa soạn một cuộc chiến đấu khác.

Em hãy quay về với thiên nhiên là nơi em có thể tạm yên nghỉ. Đây là thế giới của yên tĩnh. Màu xanh hiền dịu của cỏ cây sẽ rửa sạch đôi mắt đỏ ngầu gió bụi. Tay em sẽ nhúng vào những suối mát tê người, và những vết thương đời sẽ được hàn líp. Và kia là đền chùa tháp mộ… những hồi chuông mai giống gọi mặt trời lên, những hồi chuông chiều chuyển dần âm ba để khoả lấp mặt trời dần lặn, sẽ cho em một khái niệm rõ ràng về sự hoà hiệp của thiên nhiên.

Và đây là sử sách. Em hãy tắm gội tâm hồn trong những suối sáng ấy. Đầu óc em sẽ được rửa sạch những mảnh tan vỡ của một ảo ảnh quá đẹp đẽ về cuộc đời mà em đã mang theo khi nhập vào thế cuộc. Em đã quá tin vào cái giá trị tuyệt đối của con người, của những chữ bác ái, vị tha, cho nên em đã thất vọng nặng. Hãy rửa sạch đi những mộng tưởng quá hào hoa của thuở ấu thơ còn xót lại. Anh đau đớn khuyên em câu ấy để em bớt đau đớn khi nhìn thấy cuộc đời không đẹp như tưởng tượng của riêng em. Không, đời không phải toàn thiện, toàn mỹ. Khổ là đời, mà sự tranh đấu đã trở thành lệ luật. Nói như thế không có nghĩa là đời tuyệt không có giá trị gì và nhân loại không phải đã thất bại trong việc chinh phục bác ái, vị tha. Không, không phải là một sự thoái hoá mà em tưởng bắt gặp nhiều triệu chứng trong sự giết chóc ngày nay.

Xưa kia, trong những đoạn tối tăm của lịch sử, biết bao lần rồi, luồng gió bạo tàn đã thổi ngang trên bể nhân loại, và từng chục triệu sinh linh đã bị đắm chìm trong từng lúc một, chứ nào phải chỉ bây giờ ? Anh chỉ kể ra sau đây vài ba thí dụ để em so sánh cổ kim.

Từ năm 530 đến năm 540 Tây lịch, trong khoảng mười năm thôi, Mihirakulay cầm đầu bọn Bạch Hung đã lùa chúng đến dẫm xéo tan tành cả một vùng bắc Ấn Độ. Giật lưỡi hái trên tay thần chết, nó đã tung hoành trên những xứ này, và ba chục triệu chiếc đầu của người dân vô tội đã rơi rụng tơi bời.

Hàng trăm triệu người đã điêu linh vì Thành Cát Tư Hãn, hàng chục triệu người đã làm mồi cho lưỡi đao khát máu của Nguyên Mông, từng vạn thành trì đã trở thành lò sát sinh của bọn giặc ấy. Từ Á sang Âu, từ Mông đến Ấn, cỏ không mọc được dưới chân ngựa chúng dẫm, thành trì bị chúng sang phẳng để địch quân không thể trú ẩn, nhân dâng bị tuyệt diệt, để khỏi phải bớt lại một số quân lính canh phòng, mà đem số tù binh quá nhiều đi theo chỉ làm phiền cho quân đội phải canh giữ. Thành Cát Tư Hãn bị tử thương trong khi vào chiếm thành Ninh Hạ, để rửa thù, tên khát máu nhân loại kia đã truyền đem xử tấctcả dân chúng trong thành trên mộ phần của nó.

Cháu nội của Thành Cát Tư Hãn là Houlagou sau khi chiếm được Bagdad, đã thả quân lính cho đi cướp phá kinh thành, và tám mươi vạn dân Hồi đã rơi đầu trong bảy ngày liên tiếp (1228).

Tamerlan, với những chiếc đầu người, đã truyền dựng rải rác khắp nơi những kim tự tháp. Năm 1387 thành Ispahan nổi loạn. Để khủng bố lương dân, Tamerlan cho xây quanh thành một vòng kim tự tháp với bảy chục vạn cái đầu lâu. Năm 1490, mười vạn cái đầu rơi, bốn ngàn người bị chôn sống khi nó chiếm được thành Sivas, năm 1401 kinh thành Bagdad bị sang phẳng, theo lệnh của tên đại sát nhân kia, một trăm hai mươi kim tự tháp đã mọc lên trên những vết điêu tàn, với chín chục vạn đầu lâu xây cùng vôi gạch.

Em thấy đó, lịch sử nhân loại cũng diễn ra nhiều đoạn tối tăm khủng khiếp, chứ không riêng chỉ ngày nay. Nhưng ngày nay, nếu em thấy cuộc sống ghê gớm hơn bao giờ hết, bởi vì em vừa chứng kiến một cuộc thế chiến kinh hồn thứ hai. Cảnh tượng đỏ ối của khói lửa phản chiếu vào tâm trí làm em hoảng hốt, xui em nhìn đâu cũng thấy toàn một màu sắc ghê tởm ấy. Nhưng chiến tranh đâu phải là một chuyện xảy ra hàng ngày, phải đâu là một trạng thái thường nhiên bất đoạn của thế giới này, mấy mươi năm mới có một thời giặc giã. Đấy là tiếng dây đàn vụt đứt, thỉnh thoảng xen lẫn trong bản đàn vĩnh viễn. Đấy là những luồn bão thổi bạc qua trên bể nhân loại làm người đắm thuyền chìm. Nhưng cơn bão qua rồi, những chiếc buồm trắng trùng điệp lại lô nhô mọc trên mặt nước xanh bình lặng. Và trong mỗi chiếc thuyền, cho đến trong mỗi chiếc ghe nan, những người thuỷ thủ mặt xạm nắng mưa, vẫn chất chứa đầy khoan cái hi vọng thiết tha được thấy bờ hạnh phúc.

Trong sự đi tìm hạnh phúc ấy, thuyền bè chi chít có lúc va chạm nhau, và sự đắm chìm không thể tránh được. Em nên tin rằng đấy là do sự vụng về hay thiếu sáng suốt, nhiều hơn là do ác ý của những thuỷ thủ muốn đắm chìm nhau. Từ thuở nhân loại nhổ neo trong những bến bờ tối tăm để đi tim hạnh phúc cho tới nay, truyền nối qua mấy trăm ngàn thế hệ, bác ái và vị tha vẫn là hai nguyên tắc chính, cái kim chỉ nam của những kẻ lái thuyền vĩ đại. Thích Ca Mâu Ni, Jésus hay Khổng Tử … Những nguyên tắc trái với bác ái, vị tha đã được đem ra thí nghiệm, nhưng không có một nguyên tắc nào đứng vững. Mà nếu nó đứng vững, là thế sự đảo điên, lương dân điêu đứng. Rồi người ta cũng phải bắt buộc trở về với bác ái, vị tha.

Tuy đến nay, vị kỷ vẫn không thôi trói buộc lòng người, nên tất cả thuỷ thủ là chúng ta đây vẫn còn bị lúng túng, đụng chạm nhau trong khi chống chèo, vì bao nhiêu dây nhợ ích kỷ ấy. Nhưng trong mỗi đầu óc nào lại không nở ra một tia sáng, một hoa hi vọng được giải thoát. Cái hoa kia, tia sáng nọ chưa có một thời đại nào, dù đen tối bao nhiêu, đã héo hắc trong hồn thiêng của nhân loại. Đấy là trạng thái vĩnh viễn trong sự sống vĩnh viễn truyền qua đời kiếp.

Em có thể nào bảo rằng những trạng thái tâm hồn ấy chỉ là những tin tưởng, những hoài vọng thường bị thực tế bạo tàn phản bội. Nhưng dù bị phản bội, chúng cũng được thực hiện một phần nào. Từ thuở đang co ro, mò mẫn trong tối tăm rét mướt cho đến nay, nhân loại đã bước được một bước dài trên đường sáng lạn, phải chăng không nhờ những tin tưởng kia ư ? Tin tưởng là một sức mạnh. Huống chi đây là tin tưởng của cả nhân loại, của mọi thời đại, thì nó còn mãnh liệt biết bao nhiêu.

Hiện nay khoa học đang mở một con đường mới cho loài người đi tìm hạnh phúc. Có kẻ mạnh dạn dấn thân vào, tin chắc sẽ nắm được con chim hạnh phúc, có kẻ rụt rè e ngại tiên đoán những triệu chứng bất thường của sự diệt vong. Chúng ta hãy bình tĩnh chờ xem. Khoa học chưa hoàn thành nhiệm vụ của nó. Đây chỉ mới là cuộc thí nghiệm lớn. Sự sống huyền diệu còn dành cho chúng ta những bất ngờ không thể tiên tri được. Chúng ta không nên quá lạc quan, cũng không nên bi quan, nhưng bao giờ cũng tin tưởng ở bản năng và trực giác hướng đến hạnh phúc của loài người. Hãy tin tưởng ở tiến hoá.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
27/10/2010(Xem: 10274)
Tên gọi của Đức Phật là «Thích-ca Mâu-ni» có nghĩa là «Bậc Tịch tĩnh trong họ Thích-ca», «Trí giả trầm lặng trong họ Thích-ca», chữ Phạn mauni có nghĩa là yên lặng. Phật còn có tên là «Mahamuni» : Maha là lớn, «Mahamuni» là «Bậc yên lặng Lớn lao» hay vị «Đại Thánh nhân của Yên lặng».
27/10/2010(Xem: 9985)
Tôn chỉ Phật giáo là chí hướng cao siêu của một chân lý. Chí hướng của Phật là "Tự Giác Giác Tha", có nghĩa là tự mình giác ngộ, thức tỉnh trong giấc mộng vô minh...
27/10/2010(Xem: 11795)
Tu thiền là thực hiện theo nguồn gốc của đạo Phật. Vì xưa kia, Đức Phật tọa thiền suốt bốn mươi chín ngày đêm dưới cội bồ đề mới được giác ngộ thành Phật. Chúng ta là Tăng Ni, Phật tử học giáo lý của Phật thì phải đi theo con đường mà Phật đã đi, không đi con đường nào khác, dù đường ấy người thuyết giảng nói linh thiêng mầu nhiệm, chúng ta cũng không theo. Chúng ta cần phải giảng trạch pháp thiền nào không phải của Phật dạy và pháp thiền nào của Phật dạy, để có cái nhìn chính xác, để tu và đạt được kết quả tốt đúng với giáo lý mà mình đã tôn thờ.
27/10/2010(Xem: 7549)
Vì Sao Cần Phải Niệm Phật? Vì sao lúc bình thường chúng ta cần phải niệm Phật? Lúc bình thường chúng ta thường niệm Phật là để chuẩn bị cho lúc lâm chung. Thế thì tại sao không đợi đến lúc lâm chung rồi hãy niệm Phật? Tập quán là thói quen được huân tập qua nhiều ngày, nhiều tháng. Cho nên, nếu bình thường các bạn không có tập quán niệm Phật thì đến lúc lâm chung các bạn sẽ không nhớ ra là mình cần phải niệm Phật. Do đó, lúc bình thường mình cần phải học niệm Phật, tu Pháp-môn Tịnh Độ, đến lúc lâm chung mới không hoảng hốt, luống cuống, mà trái lại, sẽ an nhiên vãng sanh Thế Giới Cực-lạc!
25/10/2010(Xem: 7112)
Chúng ta theo đạo Phật là để tìm cầu sự giác ngộ, mà muốn được giác ngộ thì phải vào đạo bằng trí tuệ, bằng cái nhìn đúng như thật, chớ không thể nhìn khác hơn được.
23/10/2010(Xem: 9196)
Từ hơn bốn mươi năm nay, chưa bao giờ Việt Nam đứng ra tổ chức một lễ Phật Đản lớn về tất cả mọi mặt: tôn giáo, văn hóa, xã hội, và về cả chính trị như lần này. Nói lớn về cả chính trị là bởi trong ba ngày vừa qua, thủ đô Hà Nội là thủ đô Phật giáo của thế giới.
23/10/2010(Xem: 10386)
Trong kinh Pháp Hoa có dạy: "Đức Phật vì một đại sự nhân duyên mới xuất hiện ra đời, để mở bày, chỉ dạy chúng sanh giác ngộ và thể nhập vào tri kiến Phật". Giáo pháp của Phật như biển rộng rừng sâu, tuy nhiên cũng có thể tóm thâu trong bốn câu kệ: “Chư ác mạc tác Chúng thiện phụng hành Tự tịnh kỳ ý Thị chư Phật giáo”.
23/10/2010(Xem: 9195)
"Mưa dầm thấm sâu, sẽ giúp con cháu trong gia đình đến với đạo Phật, thực hành theo lời dạy của đức Phật một cách tự nhiên và bền vững. Điều quan trọng là tự thân của mỗi người cư sĩ Phật tử nên tự nổ lực tinh tiến tu học, cẩn thận ba nghiệp thân miệng ý, làm sao để trở thành một tấm gương sáng cho con cháu noi theo"
22/10/2010(Xem: 8017)
Sự ảnh hưởng sâu rộng của Đức Phật và Tăng đoàn đã làm cho ngoại đạo lo sợ quần chúng sẽ theo Phật và xa rời họ. Do đó, một nhóm ngoại đạo đã suy nghĩ, toan tính âm mưu triệt hạ uy danh Đức Phật. Sau cùng, một nữ đệ tử cuồng tín của họ tên là Tôn Đà Lợi đã chấp nhận hy sinh bản thân cho mục đích đen tối đó.
22/10/2010(Xem: 5845)
“Nguyện lực” hay “quyết định lực” là 01 trong 10 ba-la-mật (pāramī) (1) theo kinh điển truyền thống. Nó là năng lực của ý chí tiếp sức cho tư tác (cetanā) hoàn thành tâm nguyện của người học Phật và tu Phật. Chư Chánh Đẳng Giác, Độc Giác, Thinh Văn Giác đều có nguyện lực và đều có ba giai đoạn: Nguyện trong tâm (ý), nguyện thành lời (khẩu) và nguyện bằng hành động (thân) ba-la-mật. Như đức Phật Sakyā Gotama đã phát nguyện ở trong tâm suốt 7 A-tăng-kỳ, nguyện thành lời suốt 9 A-tăng-kỳ, và nguyện bằng hành động ba-la-mật suốt 4 A-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp(2). Như vậy là đức Phật Sakyā Gotama phải thực hành ba-la-mật trải qua 24 vị Phật tổ, kể từ Phật Dīpaṅkāra (Nhiên Đăng) cho đến Phật Kassapa (Ca Diếp).
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]