Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

7. Chân Thành

25/02/201116:59(Xem: 5413)
7. Chân Thành

THỬ HÒA ĐIỆU SỐNG
Võ Đình Cường

CHÂN THÀNH

Đời, sự tuôn trào bất diệt ấy, không thể nằm yên trong một hình thức nhất định nào. Ta dừng lại một nơi nào đó, trong thời gian hay không gian, là tự phản bội, là từ bỏ cuộc đời. Vì sống là đi chứ không phải đứng lại.

Trong mấy năm lại đây, cuộc thế đổi thay một cách nhanh chóng chưa từng thấy bao giờ. Em có cảm tưởng như đang ngồi trong rạp hát. Và khó chịu nhất là trên sân khấu, quanh đi quẩn lại chỉ chừng ấy con hát, thay đổi mặt mày, sắm đủ vai lớp, trung đấy và nịnh cũng đấy, ác đấy và thiện cũng đấy, vào cửa này là bằng hữu, qua cửa kia là kẻ thù. Lòng người xoay như chong chóng. Em cảm nghe một nỗi trơ trọi vô cùng, bạn bè với ai đây, chân thành với ai đây.

Ngọn cỏ xoay chiều theo hướng gió, đã đành vì nó là vật vô tri. Em chỉ ngạc nhiên sao lòng người cũng dễ dàng uống rạp mình theo mọi xu hướng thế được? Đấy là điều đáng buồn và tủi nhục nhất của con người.

Trái lại, có một hạng người khác, tuy không đáng khinh bỉ, nhưng lại đáng e ngại hơn. Ấy là hạng giữ độc quyền về tin tưởng của mình, nên đã độc đoán, tàn nhẫn với những kẻ không tin tưởng như họ. Họ làm như chân lý là của riêng họ, và ai không theo họ là những kẻ tà ngụy không đáng chung sống dưới một vùng trời. Thái độ ấy tạo ra bao nhiêu tai hoạ, mà kết quả chỉ có thể là sự thoái hoá, nếu không phải là sự diệt vong.

Xưa kia, trừ Phật giáo, nhiều tôn giáo đã gây ra không biết bao nhiêu cuộc tàn sát, giết chóc, chỉ vì muốn giữ độc quyền về tín ngưỡng. Cái hoạ ấy chưa hết, quyền tự do tín ngưỡng chưa được áp dụng triệt để ở mọi chân trời, thì ngày nay tiếp theo cái hoạ độc quyền phát xít …

Có cần phải áp bức, ác độc, giết chóc nhiều hơn nữa mới hiểu rằng chân lý là một điều rất tương đối, mọi hoàn cảnh tạo ra những tư tưởng khác nhau, và những phương pháp tàn bạo để bắt kẻ khác theo mình chỉ làm cho người ta xa lánh mình hơn nữa.

Có lẽ không ai không hiểu như thế. Nhưng khi người ta đã tin tưởng một cách chân thành vào giá trị tuyệt đối của một học thuyết, chủ nghĩa quỷ và dễ độc đoán với những ai không chia cùng họ một tin tưởng. Có lẽ đấy là trạng thái thông thường về tâm lý …

Trong sự tìm chân lý, điều kiện cần thiết đầu tiên là thái độ khoan hoà, rộng rải. Không ai có quyền viện sự chân thành với tin tưởng riêng của mình để độc đoán tàn bạo với những kẻ khác. Sự đời có muôn hình vạn trạng, cần có muôn vạn con mắt, lỗ tai để nghe ngóng khắp nơi. Không nơi bít kín chúng lại hay bắt buộc chúng chỉ hướng về một phía. Nếu ai cũng hiểu rằng mọi học thuyết, mọi tư tưởng đều có một mục đích chung là cải thiện đời sống, đưa nhơn loại đến gần sự thật hơn, khi ấy mọi người ở trường này hay phái nọ đều phải nhận thấy rằng mình là những tay thợ đang thực hiện lý tưởng chung; và mọi học thuyết mọi chủ nghĩa đều là những thí nghiệm để đi đến mụch đích chung ấy cả. Vả lại, sao ta dám chắc ta đã đi đúng đường và bao nhiêu kẻ khác đi sai ? Đối với kho tàng chân chân lý quý báu mà nhơn loại đã gom góp được qua bao nhiêu thế hệ chảy trôi, mỗi chúng ta chỉ là một kẽ chài lưới đang ra công mò mẫn trong bể sâu huyền bí bao la, là cái vũ trụ này, để lượm lặt những hạt châu chân lý và vứt vào kho báu tinh thần kia. Nhưng để làm tròn sứ mệnh ấy, đã bao lần, ôi đã bao lần và có khi suốt cả một kiếp sống, suốt nhiều kiếp sống chúng ta đã nắm được trong tay một hạt ngọc quý, nào hay khi đưa ra ánh sáng, thì đấy chỉ là một hòn đá sỏi !

Em tưởng thái độ rộng rãi gần như dè dặt ấy sẽ làm cho người ta không thể hoạt động mạnh nẽ được và cũng khó mà làm cho họ chân thành với tin tưởng họ. Có lẽ đấy là nguyên nhân chính khiến một số đông người đời hay thay đổi lý tưởng của họ như thay áo chăng ?

Không em ạ, chúng ta phải phân biệt hai hạng người, tuy bề ngoài giống nhau kỳ thật xa nhau như trời với vực. Một hạng chỉ biết làm nô lệ cho lòng tham danh, chuộng lợi của họ, nên khi nhận thấy ở đâu có thể thoả mãn được dục vọng thấp hèn là ngã ngay vào đấy. Hạng ấy tất nhiên chỉ để chúng ta khinh bỉ.

Nhưng có một hạng người khác, đáng kính chớ không thể khinh được. Ấy là hạng chỉ biết phụng sự chân lý. Họ có thể ruồng bỏ tất cả, tiền tài, danh vọng, bản thân để lắng nghe tiếng gọi của sự thật. Không có thể một trở ngại nào có thể cản ngăn họ. Họ chính là những người chân thành nhất, chân thành với sự thật, với cuộc đời. Và chỉ có sự chân thành ấy là quí báu nhất. Bao nhiêu thứ chân thành khác chỉ có một giá trị tương đối, tạm bợ mà thôi. Cuộc đời là một sự tiến bộ, mọi sự vật đều phải đổi thay. Một lý thuyết, một chủ trương dù hay ho bao nhiêu cũng chỉ sống được một thời. Trên bước thang tiến bộ, chúng chỉ là những cấp bực mà nếu muốn trèo cao, chúng ta phải bắt buộc phải dẫm lên và rời bỏ chúng lại.

Con tằm phá bỏ cái kén trong ấy nó đã tự giam để tuân theo nhịp sống. Đời sống tinh thần phải thoát ra những hình thức nhất thời để được tồn tại mãi mãi. Con tằm sống cho sự sống, không phải sống cho cái kén. Nếu nó trung thành với cái kén, nó sẽ tự giam mình chết trong đó. Để được thích hợp với cuộc đời rộng rãi, không bờ bến, và luôn luôn biến đổi,chúng ta bắt buộc phải sang bằng những gì chia rẽ ngăn cách, rời bỏ những gì nhất thời tạm bợ. Như thế gọi là chân thành với cuộc đời, với sự sống. Mà có chân thành với cuộc đời, với sự sống mới mong đi sát lẽ thật, vì lẽ thật nằm trong sự sống linh động, nóng hổi, đổi thay.

Về tinh thần cũng như vật chất, dừng lại, tự trói buộc lại, ở một nơi nào đó trong thời gian hay không gian, là tự huỷ. Sống, nghĩa là luôn luôn chọn lọc và tiến triển.

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
15/05/2021(Xem: 4930)
Không nói được tiếng Tây Tạng và chưa bao giờ dịch tác phẩm nào nhưng Evans-Wentz được biết đến như một dịch giả xuất sắc các văn bản tiếng Tây Tạng quan trọng, đặc biệt là cuốn Tử Thư Tây Tạng ấn bản năm 1927. Đây là cuốn sách đầu tiên về Phật giáo Tây Tạng mà người Tây Phương đặc biệt quan tâm. Ông Roger Corless, giáo sư Tôn Giáo Học tại đại học Duke cho biết: “Ông Evans-Wentz không tự cho mình là dịch giả của tác phẩm này nhưng ông đã vô tình tiết lộ đôi điều chính ông là dịch giả.”
15/05/2021(Xem: 5050)
Ngay sau tác phẩm Mối tơ vương của Huyền Trân Công Chúa, người đọc lại được đón đọc Vua Là Phật - Phật Là Vua của nhà văn Thích Như Điển. Đây là cuốn sách thứ hai về đề tài lịch sử ở thời (kỳ) đầu nhà Trần mà tôi đã được đọc. Có thể nói, đây là giai đoạn xây dựng đất nước, và chống giặc ngoại xâm oanh liệt nhất của lịch sử dân tộc. Cũng như Mối tơ vương của Huyền Trân Công Chúa, tác phẩm Vua Là Phật - Phật Là Vua, nhà văn Thích Như Điển vẫn cho đây là cuốn tiểu thuyết phóng tác lịch sử. Nhưng với tôi, không hẳn như vậy. Bởi, tuy có một số chi tiết, hình ảnh tưởng tượng, song dường như rất ít ngôn ngữ, tính đối thoại của tiểu thuyết, làm cho lời văn chậm. Do đó, tôi nghiêng về phần nghiên cứu, biên khảo, cùng sự liên tưởng một cách khoa học để soi rọi những vấn đề lịch sử bấy lâu còn chìm trong bóng tối của nhà văn thì đúng hơn. Ở đây ngoài thủ pháp trong nghệ thuật văn chương, rõ ràng ta còn thấy giá trị lịch sử và hiện thực thông qua sự nhận định, phân tích rất công phu của
15/05/2021(Xem: 4422)
Ấm ma là hiện tượng hóa ngôn ngữ. Trong kinh Lăng Nghiêm nói đến 50 ấm ma là nói đến biến tướng của nghiệp thức, của các kiết sử thông qua lục căn từng giao tiếp với lục trần trên nền tảng “ sắc-thọ-tưởng-hành-thức”.
15/05/2021(Xem: 4085)
Đọc xong tác phẩm nầy trong một tuần lễ với 362 trang khổ A5, do Ananda Viet Foundation xuất bản năm 2017, Bodhi Media tái xuất bản tại Hoa Kỳ trong năm 2020 và tôi bắt đầu viết về Tác phẩm và Tác giả để gửi đến quý độc giả khắp nơi, nếu ai chưa có duyên đọc đến. Nhận xét chung của tôi là quá hay, quá tuyệt vời ở nhiều phương diện. Phần giới thiệu của Đạo hữu Nguyên Giác gần như là điểm sách về nhiều bài và nhiều chương quan trọng trong sách rồi, nên tôi không lặp lại nữa. Phần lời bạt của Đạo hữu Trần Kiêm Đoàn cũng đã viết rất rõ về sự hình thành của Gia Đình Phật Tử Việt Nam ở trong nước, từ khi thành lập cho đến năm 1975 và Ông Đoàn cũng đã tán dương tuổi trẻ Việt Nam cũng như tinh thần học Phật, tu Phật và vận dụng Phậ
10/05/2021(Xem: 4679)
Chỉ có bốn chữ mà hàm chứa một triết lý thâm sâu ! Chỉ có bốn chữ mà sao chúng sanh vẫn không thực hành được để thoát khỏi sự khổ đau ? Nhưng cũng chỉ bốn chữ này có thể giúp chúng sinh phá được bức màn vô minh, đến được bến bờ giác ngộ, thoát vòng sinh tử !
08/05/2021(Xem: 4142)
Chủ đề bài này là nói về tỉnh thức với tâm không biết. Như thế, nghĩa là những gì rất mực mênh mông, vì cái biết luôn luôn là có hạn, và cái không biết luôn luôn là cái gì của vô cùng tận. Cũng là một cách chúng ta tới với thế giới này như một hài nhi, rất mực ngây thơ với mọi thứ trên đời. Và vì, bài này được viết trong một tỉnh thức với tâm không biết, tác giả không đại diện cho bất kỳ một thẩm quyền nào. Độc giả được mời gọi tự nhìn về thế giới trong và ngoài với một tâm không biết, nơi dứt bặt tất cả những tư lường của vô lượng những ngày hôm qua, nơi vắng lặng tất cả những mưu tính cho vô lượng những ngày mai, và là nơi chảy xiết không gì để nắm giữ của vô lượng khoảnh khắc hôm nay. Khi tỉnh thức với tâm không biết, cả ba thời quá, hiện, vị lai sẽ được hiển lộ ra rỗng rang tịch lặng như thế. Đó cũng là chỗ bà già bán bánh dẫn Kinh Kim Cang ra hỏi ngài Đức Sơn về tâm của ba thời.
04/05/2021(Xem: 3577)
Một khi Đức Đạt Lai Lạt Ma rời Tây Tạng, ngài sẽ phải đối diện với nhiệm vụ khó khăn về việc nói với thế giới những gì đã xảy ra ở quê hương ngài và cố gắng để có được sự giúp đở cho người dân của ngài. Ngài cũng phải chạm trán với sự tuyên truyền của truyền thông Tàu Cộng rằng ngài đã bị bắt cóc. Tuy nhiên, nhu cầu thiết yếu nhất là để bảo đảm nhà ở và thực phẩm cho những người Tây Tạng đã đi theo ngài lưu vong. Ngài đã hướng đến chính phủ Ấn Độ, và họ đã không làm ngài thất vọng. Trong thực tế, Ấn Độ cuối cùng đã tiếp nhận hơn một trăm nghìn người tị nạn, cung cấp chỗ ở, và nuôi dưỡng họ, cho họ làm việc, và thiết lập những ngôi trường đặc biệt cho trẻ em Tây Tạng. Những tu viện Phật giáo Tây Tạng cũng được xây dựng ở Ấn Độ và Nepal.
30/04/2021(Xem: 6859)
Thưa Tôi. Hôm nay là ngày sinh nhật của Tôi, xin được phép thoát ra khỏi cái tôi để nhìn về tôi mà phán xét và đưa ra cảm nghĩ. Hình dạng tôi đã già rồi, tóc đã bạc hết cả đầu. Tôi đã trải qua một thời gian dài sinh sống làm việc và cuối đời nghỉ hưu. Tôi đã bắt đầu thấm thía cái vô thường của thời gian mang lại. Tôi cũng đã thấm thía cái sức khỏe đã đi xuống nhanh hơn đi lên. Tôi cũng đã thấm thía tình đời bạc bẽo cũng như tình cảm (Thọ) là nỗi khổ đau của nhân sinh. Tôi cũng đã hiểu rõ thế nào là ý nghĩa đích thực của cuộc sống, đó là bất khả tương nghị không thể thốt lên thành lời. Chỉ có im lặng là đúng nghĩa nhất. Ngày xưa khi lục tổ Huệ Năng của Thiền tông chạy trốn mang theo y bát thì thượng tọa Minh rượt đuổi theo để giết lấy lại. Đến khi gặp mặt thì lục tổ mang y bát ra để trên tảng đá rồi núp dưới tảng đá bảo thượng tọa Minh hãy lấy y bát đi mà tha chết cho người. Thượng tọa Mình lấy bát lên, nhắc không lên nổi vì nó quá nặng bèn sợ hãi mà quỳ xuống xin lục tổ tha c
30/04/2021(Xem: 6930)
Thiền Uyển Tập Anh chép Đại sư Khuông Việt Ngô Chân Lưu (933 – 1011) tu ở chùa Phật Đà, Thường Lạc nay là chùa Đại Bi núi Vệ Linh Sóc Sơn, Hà Nội. Ngài thuộc thế hệ thứ 4 Thiền phái Vô Ngôn Thông. Ngài người hương Cát Lợi huyện Thường Lạc, nay thuộc huyện Sóc Sơn, Hà Nội, thuộc dòng dõi Ngô Thuận Đế (Ngô Quyền). Theo Phả hệ họ Ngô Việt Nam, Thiền sư Ngô Chân Lưu tên huý là Xương Tỷ, anh trai Thái tử - Sứ quân Ngô Xương Xý, con Thiên Sách Vương Ngô Xương Ngập, cháu đích tôn của Ngô Vương Quyền. Ngài dáng mạo khôi ngô tuấn tú, tánh tình phóng khoáng chí khí cao xa, có duyên với cửa Thiền từ năm 11 tuổi.
27/04/2021(Xem: 5031)
Tánh Không ra đời một thời gian dài sau khi đức Phật Nhập diệt do Bồ tát Long Thọ xiển dương qua Trung Quán Luận. Mặc dầu khi còn tại thế đức Phật có nói về Tánh Không qua kinh A hàm và Nikaya. Nơi đây Phật có nói về tánh xuất gia của hành giả đi tu. Hạng người tâm xuất gia mà thân không xuất gia thì gọi là cư sĩ. Và hạng người tâm và thân xuất gia thì gọi là tỳ kheo. Tánh Không cũng có hiện hữu trong kinh Tiểu không bộ kinh trung bộ. Phật có dạy: nầy Ananda, Ta nhờ ẩn trú Không nên nay ẩn trú rất nhiều. Kế tiếp Phật có dạy trong kinh A hàm về các pháp giả hợp vô thường như những bọt nước trôi trên sông: sự trống không của bọt nước.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]