Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

4. Số Phận hay Rủi May

25/02/201116:59(Xem: 4275)
4. Số Phận hay Rủi May

THỬ HÒA ĐIỆU SỐNG
Võ Đình Cường

SỐ PHẬN HAY RỦI MAY

Những cái đích, chúng ta đã qua hay sắp đến, chỉ có một công dụng là khuyến khích chúng ta đi. Chứ cái vui thật của cuộc đời, cũng như của kẻ du lịch khôn ngoan, là sự đi tới.

Kìa anh! Con nhện buông tơ, nhưng gió đưa nhẹ quá. Mạnh một chút nữa gió ơi, cho con nhện kia được bám vào một nhánh cây nào bên cạnh nó. Thôi gió đứng rồi, nhện sa thêm một đoạn nữa . . .

Gió lại lên. Bây giờ quá mạnh, nhện sa dần sa dần … không khéo sợi tơ mong manh thế kia sẽ đứt mất. Thôi xong, nó đứt thật!. Nhện rơi xuống đất rồi.

Anh ơi, đời của mỗi chúng ta không khác gì con nhện ấy, và ngọn gió kia là những may rủi của cuộc đời. Con nhện buông tơ, nó có biết đâu gió sẽ lành hay dữ, may thì gió lành giúp nó dệt thành lưới, không may thì gió dữ thổi đứt sợi tơ đầu. Ai biết được số phận mình? Đời người là một cuộc sổ số. Sự thành bại là do may rủi, phải thế không anh ?

Không em ạ, anh không tin có may rủi. Mọi vật xảy ra thế này hay thế khác đều có nguyên nhân. Chúng ta không biết rõ hết nguyên nhân ấy nên tưởng có may rủi đó thôi. Giữa mù mịt của không gian, trong đêm tối của thời gian, em chỉ thấy ngắn có một đời em mà chưa chắc đã thấy rõ hết hiện cảnh. Một chớp nhoáng trong đêm giông, một bóng nước trồi lên từ đáy hố thăm thẳm. Điều mà em gọi là số phận hay may rủi đó chẳng qua là sự kết hợp của bao nhiêu việc trước đã xảy ra mà em không thể nhớ biết hết được.

Cho nên thế gian không phải là một cuộc sổ số lớn. Bao nhiêu người đã đem đời mình ra đánh số, bởi họ tin chắc có những may rủi bất ngờ. Nhưng những may rủi ấy, chính họ đã tạo ra, chứ không phải tự trời cao, hay một nơi nào rơi xuống cả. Nếu mỗi người không mất đi một vài đồng bạc, sao có số độc đắc? Bao nhiêu cái rủi nhỏ của người thua tạo thành cái may lớn cho người được. Những thoáng buồn vụn vặt dính theo đồng bạc mất đi, tạo thành cái vui vô hạn chồng chất với bạc mà người trúng số thâu vào. Rủi may bắt đầu có khi người ta tin và tạo ra rủi may. Bao nhiêu người đã khoanh tay ngồi đợi một cái may không thể có được rồi tự than “đời ta chỉ gặp toàn rủi”.

Em ạ, đừng oán trời đất bất công, cũng đừng trách lòng người nham hiểm. Không ai phá hoại ta bằng ta. Bao nhiêu thất bại là tại ta một phần lớn, nếu không là tất cả. Đừng tìm nguyên nhân chính đâu khác ngoài những vụng về, lười nhác, dục vọng … của chính ta. Mỗi người là một kiến trúc sư tự xây dựng lấy đời mình. Số phận chỉ là kết quả của những hành động mình đã tạo ra trước.

Nếu không có số phận, tại sao hai người cùng làm một việc như nhau mà người này thành công mà người kia thất bại ?

Em hãy tìm với họ tất cả nguyên nhân rồi trong ấy, em sẽ thấy ít ra một nguyên nhân làm cho người này thành công mà người kia thất bại. Nhưng sao em cứ nhắc mãi đến sự thất bại và thành công? Thành công hay thất bại thật ra không đáng kể về phương diện giá trị tinh thần.

Đáng kể là sự cố gắng. Đấy mới thật là chân giá trị, nếu người ta thành công một cách quá dễ dàng thì sự thành công không giá trị mấy. Một giá trị thật phải cân xứng với công lao. Nếu không công lao mà muốn có giá trị, thì chẳng qua cái lốt chim Hoàng phủ lên mình con Quạ. Những cái lốt bề ngoài thật không đáng cho ta chú trọng đến.

Nhưng tại sao người đời thường để tâm đến? Sở dĩ người đời thường quá quan tâm đến sự thất bại và thành công cũng vì quá chú trọng đến dư luận. Sợ thất bại thường do lo sợ những lời chê bai. Chứ riêng nó không có gì đáng sợ cả. Không có sự thất bại nào là vô ích, mỗi bước xẩy chân là một lần kinh nghiệm, và nếu chúng ta biết gượng dậy, thì đấy cũng là những bước tiến lên.

Chân giá trị là ở những sự gượng dậy, những bước tiến lên ấy, chứ không phải là sự hoan hô khi chúng ta bước lên đài danh vọng.

Sự cố gắng là chân giá trị đã đành. Nó cũng là một mầm hạnh phúc nữa. Đời em, dù có dễ dàng bước từ thành công này đến thành công khác đi nữa, em cũng vẫn còn thấy thiếu thốn, cần phải tiến lên luôn. Nếu em dừng lại ở một chút nào đấy, em sẽ thấy sao phút rực rỡ của người chiến thắng, phủ dần quanh em những lớp tro tàn chán nản của sự dừng nghỉ. Màu sắc úa dần trên những tấm huy chương. Khúc khải hoàn vừa dứt, thì cô tịch lại nặng nề trở về trên gối kẻ chiến sĩ vừa thắng trận. Em thấy đấy, thành công chỉ đem lại cho ta cái vui chốc lát. Chính cố gắng mới đem lại sự bằng lòng vĩnh viễn. Những cái đích, chúng ta đã qua hay sắp đến, chỉ có một công dụng là khuyến khích chúng ta đi. Chứ cái vui thật của cuộc đời, cũng như của kẻ du lịch khôn ngoan là sự đi tới, sự tiến bộ. Em thử nhớ lại xem có phải nhiều khi chính những nơi em định đến chơi mà em tưởng sẽ vui lắm lại ít vui hơn khi đi giữa đường. Cho nên cái thuật của niềm hoan lạc là sự cố gắng đi tới, dù đi tới chậm hay mau, dù đi tới thành công hay thất bại. Nỗi sung sướng, cũng như bao nhiêu việc khác ở đời, chỉ có một giá trị tương đối với hoàn cảnh riêng của mỗi người. Người ăn mày được một đồng bạc vui sướng bằng người triệu phú được một cân vàng, em ạ! Không cần phải có tài sức ngang nhau, những sự thành công giống nhau mới có những vui sướng bằng nhau. Em đi sau một kẻ khác, những nỗi thích thú của em sẽ ngang hàng với nỗi thích thú của kẻ đi trước, nếu trên bước đường của em, em đã tiến được, với sự cố gắng của em, như người kia với sự cố gắng của họ.

Nhưng kìa em, con nhện ban nảy đã bò lên cây tự bao giờ, và dệt xong tấm lưới, trong lúc chúng ta đang bàn phiếm với nhau.

Em ạ! Nếu em biết loại bỏ những giờ than trách số phận, những phút oán thán cuộc đời, thì em đã dệt thêm được bao nhiêu tấm lưới cho đời em.



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
07/01/2021(Xem: 5541)
Một khuôn mặt trong một tấm gương xuất hiện là một khuôn mặt, nhưng thế nào đi nữa hình ảnh đấy không là một khuôn mặt thật sự; đấy là từ những quan điểm trống rỗng về sự hiện hữu của một khuôn mặt. Giống như thế, một nhà huyển thuật có thể gợi lên những ảo ảnh dường như là những thứ thật sự. như một người ở trong một cái thùng bị xiên bởi một cây gươm, nhưng tất cả hoàn toàn không được tạo ra thật sự như những thứ được thấy. Tương tự thế, các hiện tượng như thân thể hiện diện được tạo ra từ chính phía của đối tượng nhưng trống rỗng trong việc được thiết lập cách ấy và luôn luôn như thế.
04/01/2021(Xem: 5459)
Đức Đạt Lai Lạt Ma đưa ra nhận xét chính thức đầu tiên về việc nghỉ hưu, từ các trách nhiệm chính trị trong một buổi giảng dạy công khai tại Tsuglagkhang, Dharamshala, ngày 19 tháng 3 năm 2011. Năm 1963, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã ban hành một Hiến pháp Dân chủ (democratic constitution) hoàn toàn dựa trên Giới luật Phật giáo, và bản Hiến chương Nhân quyền của Liên Hợp Quốc để biên soạn, và chuẩn bị cho một mô hình đất nước Tây Tạng tự do ở tương lai:
04/01/2021(Xem: 6864)
Ngày Xuân ngày Tết, nếu ai tìm những giờ phút thanh thản yên tịnh bằng những bước nhẹ nhàng khoan thai vào vãng cảnh các chùa chiền tự viện, dâng hương bái Phật, nếu để ý sẽ thấy ở một vách tường nào đó treo bộ tranh mang tên gọi là “Thập mục ngưu đồ”. Không phải chốn già lam thiền viện nào cũng có trưng treo, vì đó không phải là điều bắt buộc thuộc thanh quy giới luật, nhiều khi chỉ được treo để trang trí, hay được trưng ra ở một nơi hằng ngày đi qua đi lại như để nhắc nhở, vậy nếu khi ta bắt gặp được tức là ta đang hữu duyên, hãy đừng bỏ dịp đứng trước bộ tranh mang những nét sơ sài ấy để ngắm từng bức mà chiêm nghiệm nghiền ngẫm.
04/01/2021(Xem: 4250)
Phật Vàng (Golden Buddha) có tên chính thức trong tiếng Thái là “Phra Phuttha Maha Suwana Patimakon”, nặng 5,5 tấn. Sau nhiều lần di chuyển, pho tượng hiện đang nằm trong đền thờ Wat Traimit, Bangkok, Thái Lan. Hiện tại, mặc dù các học giả vẫn chưa xác định chắc chắn nguồn gốc của pho tượng là bắt nguồn từ thời gian nào. Nhưng dựa theo cấu trúc của phần đầu bức tượng (hình quả trứng), thì có thể đoán rằng, nó ra đời vào dưới triều Sukhothai vào thế kỷ 13 – 14 – một trong những giai đoạn nổi tiếng nhất của nghệ thuật kiến trúc Phật giáo Thái Lan.
03/01/2021(Xem: 9066)
Một Số Danh Tăng Việt Nam Tuổi Sửu Thiền sư TRÌ BÁT (Kỷ Sửu 1049) Thiền sư TỊNH THIỀN (Tân Sửu 1121) Hoà thượng THÍCH ĐẠT THANH (Quý Sửu 1853) Hoà thượng THÍCH GIÁC NHIÊN (Đinh Sửu 1877) Thiền sư THÍCH CHƠN PHỔ - THUBTEN OSALL LAMA (Kỷ Sửu 1889) Hoà thượng THÍCH BỬU LAI (Tân Sửu 1901) Hoà thượng THÍCH THIÊN ÂN (Ất Sửu 1925) Hoà thượng THÍCH MINH THÀNH (Đinh Sửu 1937)
03/01/2021(Xem: 5408)
“Con trâu là đầu cơ nghiệp”. Với một nước nông nghiệp như nước ta, hình ảnh con trâu nặng nề lầm lũi, kềnh càng cục mịch luôn gắn bó với những cánh đồng thửa ruộng, thân thiết với bao người nông dân chân lấm tay bùn, và gần gũi với lũ trẻ mục đồng thường nghêu ngao bài hát quen thuộc “Ai bảo chăn trâu là khổ, chăn trâu sướng lắm chứ!”… Không chỉ như thế, trâu cũng đã từng gắn bó với cuộc đời một vài danh nhân lịch sử như Đinh Bộ Lĩnh, Đào Duy Từ… Đối với nền văn học nước nhà, con trâu còn có cái công rất lớn trong việc làm phong phú ngôn ngữ, nhất là trong ca dao- đồng dao-tục ngữ.
01/01/2021(Xem: 5031)
Từ lâu các kinh sách Phật Giáo Việt Nam bị ảnh hưởng bởi ngôn ngữ âm Hán Việt của Trung Quốc. Từ những được chư tôn thiền đức Tăng Ni chuyển qua quốc ngữ tiếng Việt, để Phật tử dễ đọc, nhất là những vị chưa có kiến thức về âm Hán Việt. thế kỷ 20 (năm 2000 trở đi) các kinh sách dần dần đã Người biên soạn xuất gia tại Chùa Liên Hoa, Bình Thạnh, với Tôn Sư Hải Triều Âm, các kinh sách trong Chùa tụng bằng tiếng Việt do Tôn sư chuyển ngữ. Từ năm 2005 trở đi, người biên soạn định cư và hoằng pháp tại Hoa Kỳ. Nhiều Chùa ở Hoa Kỳ vẫn còn tụng kinh bằng âm Hán Việt và nhiều nơi phải tụng bằng tiếng Anh cho người bản địa và thế hệ con cháu thứ hai sanh tại Mỹ có thể tụng hiểu được. Phật tử Việt tụng kinh bằng tiếng Việt mà vẫn chưa hiểu được ý nghĩa ẩn sâu trong lời kinh và càng bối rối hơn khi tụng kinh bằng bằng âm Hán Việt. Đó là lý do thúc đẩy, chùa Hương Sen biên soạn một cuốn “NGHI LỄ HÀNG NGÀY” bằng tiếng Việt và tổng hợp gần 50 bài kinh:
01/01/2021(Xem: 5619)
Trong kho tàng văn học của Việt Nam và Phật Giáo, Trần Thái Tông (1225 - 1258) đã có những đóng góp vô cùng to lớn và giá trị, những sáng tác của Ngài, bất hủ qua dòng thời gian, tỏa sáng lồng lộng trên bầu trời Dân Tộc và Đạo Pháp. Trần Thái Tông được kể như một vị Thiền sư cư sĩ vĩ đại, nhà thiền học uyên thâm, thành tựu sự nghiệp giác ngộ. Một vị vua anh minh dũng lược, chiến thắng quân Nguyên Mông giữ gìn bờ cõi, đem lại cường thịnh ấm no cho dân cho nước, đã để lại tấm lòng cao quý thương yêu đời đạo, lưu lại di sản trí tuệ siêu thoát cho hậu thế noi theo.
29/12/2020(Xem: 6121)
Tịch tĩnh bất động hay định lực có thể đè nén những cảm xúc chướng ngại ẩn tàng, nhưng nó không thể loại trừ hoàn toàn chúng. Tuệ giác nội quán là cần thiết bởi vì như được giải thích trước đây, nó có thể loại trừ hoàn toàn những cảm xúc phiền phức và những rối rắm hậu quả của chúng. Thiền ổn định (chỉ) và thiền phân tích (quán) bây giờ phải làm việc với nhau. Khi chúng thể hiện chức năng cách này, chúng có thể nhổ gốc những cảm xúc phiền phức và loại trừ những giới hạn của thông tuệ vì thế chúng ta có thể hoàn thành mục tiêu tối hậu của việc giúp đở những kẻ khác một cách hiệu quả hơn.
29/12/2020(Xem: 5144)
Thơ thiền Nhật bản là cả một thế giới thi ca độc đáo, tiêu biểu cho tư tưởng và chủ trương tu tập của thiền học Zen, nhất là qua một thể thơ cực ngắn gọi là haiku. Điểm đáng lưu ý và cần nêu lên trước nhất là thơ thiền Nhật bản khác hẳn với thơ Đường của Trung quốc. Một số học giả, kể cả các học giả Tây phương, dường như đôi khi không nhận thấy được sự khác biệt này khi mang ra phân tích và tìm hiểu tinh thần Phật giáo chung cho cả hai thế giới thi ca trên đây.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]