Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

2. Hình Phạt

25/02/201116:59(Xem: 5078)
2. Hình Phạt

THỬ HÒA ĐIỆU SỐNG
Võ Đình Cường

HÌNH PHẠT

Không một đấng thiêng liêng nào giữ phần thưởng phạt cả. Mỗi dục vọng xấu xa là một nhân hư, mà khi phát lộ ra hành động sẽ là một quả thối.

Khung cảnh rạng đông về, căng buồm hồng trên mặt sông xanh. Gió mai lùa nhẹ những gợn sóng vào liếm hai bờ cỏ mướt. Từ những cổ họng bé bổng của đàn chim con, tiếng hót trong và tròn như những hòn thuỷ tinh, rơi thành từng chuổi sáng, từng tràng sương ngọc đọng dưới cành mềm, đong đưa theo làn gió mỏng. Và hàng cây trĩu nặng chồi non, xoả đầu xanh cho nước gội sạch lá vàng còn xót lại.

Nhưng giữa cảnh sáng lạn, tươi trong kia, một điểm đen nhơ bẩn, một chiếc thuyền trụy lạc còn cắm sào trên sông xanh. Trong thuyền, ngọn dầu lạc đỏ ngầu còn vật vờ bên dọc tẩu. Khách chơi đêm, đầu chưa rũ sạch bóng tối, môi thâm và mặt bạc, đang ngồi lẫn lộn giữa sự hỗn độn của gối chăn. Và như không chịu nổi ánh sáng của bình minh đang xoi xỉa vào tận mặt, người kia nhắm nghiền đôi mắt đục lại . . .

Anh ạ, không có một hình phạt nào xứng đáng đối với người thiếu tin tưởng kia, đã đem mình huỷ hoại một cách ghê tởm như thế sao ? Luật pháp không can thiệp, dư luận không đếm xỉa đến, vậy có một đấng thiêng liêng nào giữ phần thưởng phạt không?

Không có một đấng thiêng liêng nào giữ phần thưởng phạt cả ! mỗi cử chỉ xấu xa tự nó đã là một hình phạt rồi. Em không thấy sự trừng phạt đối với kẻ trụy lạc ấy sao ? Đấy là một đêm thức trọn để tàn phá nguồn sống của mình, đấy là môi thâm, mắt đục, da chì bao nhiêu dấu vết mà thần trụy lạc Ma vương đã khắc trên nét mặt. Đấy là sự nhục nhã phải đối diện với ánh sáng ban mai, đêm tối nào rồi cũng có một ban mai soi sáng, những hành động xấu xa đã khuấy bùn lên trong tối. Đấy là những nỗi đau khổ khi thấy mình không còn trong sạch cùng nước non, tươi vui cùng chim bướm nữa.

Toà án thiên nhiên đã dựng lên với ánh sáng và cảnh vật thanh bình để họ tự xử lấy họ và tự trừng trị lấy. Nếu có một kẻ trụy lạc nào không cảm nghe nhục nhã, đau buồn trước những lầm lạc của mình, kẻ ấy quả thật đã thối nát lắm rồi, mất hết cả nhân tính để tự trừng phạt lấy. Họ đã trở thành một con vật.

Nhưng đấy là những kẻ tự vấy bùn lên đời mình. Còn những hạng gian tham ác độc, kiêu mạn, đem nọc độc dục vọng phun vào giữa cuộc đời mà luật pháp thiếu bằng chứng để xử đoán, thì lấy ai trừng trị, nếu không có một đấng thiêng liêng nào giữ phần ấy?

Thì cũng thế thôi, em ạ ! Không có một đấng nào giữ phần thưởng phạt cả. Mỗi một dục vọng xấu xa là một nhân hư, mà khi phát lộ ra hành động sẽ là một quả thối. Khi con chim đại bàn trong chuyện cổ tích, bảo anh chàng tham lam mang túi ba gang để nó đem đi lấy vàng, anh ta mang túi đến sáu gang, thì vàng nặng quá làm rơi cả người lẫn của xuống vực sâu là phải lắm.

Trong tham lam đã dấu sẵn mầm hình phạt. Và trong giận giữ cũng như thế. Muốn phá hoại được kẻ thù, thì ít ra ta cũng phải tự thiêu đốt mình đến một nhiệt độ cao lắm. Kẻ giận giữ là một nạn nhân đang phát hoả. Muốn châm lửa vào dầu, cái đuốc của mình phải cháy trước. Khi làm hại ai một phần nào là đã tự hại mình nhiều lắm. Rốt cuộc đau đớn nhất lại là mình.

Và trong sự khinh mạn, ai là kẻ bị trừng phạt nặng hơn, người khinh mạn, hay kẻ bị khinh mạn ? Người nhìn cuộc đời ở đâu cũng thấy sự đê hèn xấu xí, hay cuộc đời mà người kia tưởng xấu xí đê hèn ? Em hãy tưởng tượng, có một hình phạt nào đau đớn cho bằng một kiếp không thấy được gì là đẹp đẽ, cao quí để ngưỡng mộ, tôn thờ? Cái bĩu môi khinh bỉ thường trực ai ngờ cũng là một cử chỉ vấy bùn lên bao giá trị của cuộc sống, và cuộc sống đối với người bĩu môi, bỗng không mà trở thành tanh hôi mà không sao thở được. Họ sẽ chết bởi hơi ngạc của kiêu mạn xông lên. Đó là chỉ nói qua mầm hình phạt nằm sẵn trong tánh xấu căn bản: tham giận, kiêu căn mà thôi.

Bao nhiêu tội lỗi, bấy nhiêu hình phạt đều phát ra tự đấy. Kẻ mê mờ, u tối, không hiểu như thế. Họ cứ nơm nớp lo sợ bị trừng phạt, và cầu xin tha thứ, hay khôn khéo dấu che tội lỗi. Đâu biết rằng mỗi tội lỗi cũng là một hình phạt, và cái hình phạt nặng nhất của người là phải mang nhiều tội lỗi đến nỗi tâm hồn người đã bị tràn ngập mất trong vũng thối tha. Họ đã tự đắm mình lấy mà không hay.

Một hôm tham lam, giận giữ, kiêu mạn, sau khi đã kết hợp được một lực lượng rất lớn ở trần gian, bàn nhau trả thù đức Phật Thích-Ca vì chúng đã bị ngài đánh bại ở dưới góc Bồ-Đề, hơn hai ngàn rưỡi năm trước. Chúng chia nhau các ngã đường đi lùng bắt Phật. Nhưng không gặp Phật ở đâu cả, đã là tham lam, giận dữ, kiêu mạn thì làm sao gặp được Phật, như người đui làm sao thấy được ánh sáng ? Một ý tưởng u mê, vì dù u mê cũng vẫn là ý tưởng, một ý tưởng u mê đã nảy ra trong đầu óc chật ních dục vọng của chúng. Phật trốn vào chùa trong các tượng Phật. Thế là đội lốt người vào, chúng tìm đến chùa to nhất có tượng Phật vàng, xúi dục bởi tham lam. Chúng thay phiên nhau vào trả thù, theo từng sở năng của chúng, kiêu mạn giành đi đầu, kiêu mạn thì bao giờ có chịu đi sau ai ? Sau khi nhờ tham lam bẻ khoá, nó đĩnh đạc bước vào chùa . . .

Đêm đã khuya, chùa tịch mịch, vài thoáng hương trầm của buổi lễ chiều còn xót lại bay phảng phất trong không gian. Ngọn đèn dầu nhỏ toả ánh sáng mờ quanh điện thờ, đủ để gây huyền bí. Đức Phật điềm nhiên ngồi trên toà sen, đôi môi nở nụ cười im lặng.

Kiêu mạn đi vào, khinh khỉnh ngước nhìn Phật, và sực nhớ đến mối thù xưa, cất tiếng thoá mạ. Càng thoá mạ lại càng như được kích thích, kiêu mạn cất tiếng cao dần. Bỗng nó ngừng lại ngạc nhiên vì nghe như có tiếng ai đáp lại, nhưng mỗi lần nó ngừng thì tiếng ai cũng im bặt, và hễ nó thét lên thì tiếng ai cũng thét theo, dữ dội gấp bội. Kinh dị quá, nó bưng đầu chạy ra. Những tiếng thoá mạ của chính nó, vang dội khắp nơi, đuổi theo nó ra tận cửa chùa.

Giận giữ sấn vào, xách một thùng nọc độc. Nó múc từng gáo nước độc xối vào tượng Phật, nhưng tượng trơn, phẳng lì, nên nước độc cứ xuôi chiều chảy xuống, không dính lại một giọt nào. Điên tức, nó bưng cả thùng nọc độc tạc vào tượng, và nước độc vào tượng tung toé dội bắn vào mình nó. Hoảng hốt, nó lảo đảo tháo lui, khắp mình nghe nhứt nhối như bị muôn ngàn nọc rắn độc mổ.

Tham lam vội vã chạy vào, nó vác theo một cái xẻng, định vào xắn dần tượng Phật cho trút đổ. Như vậy, vừa trả được thù xưa, vừa thoả được lòng tham vọng. Thế là nó cứ cặm cụi nắm xẻng xắn vào phía dưới tượng. Một lát xắn, một miếng vàng rơi. Đống vàng càng cao, càng dục lòng tham hăng hái . . .

Nhưng tượng Phật bị đào sâu phía dưới, mất thăng bằng đổ nhào xuống, đè bẹp lên mình tham lam. Trong lúc vùng vẫy để thoát ra khỏi đống vàng nguy hiểm ấy, tham lam sực nhìn lên và thấy trên môi hiền từ của Phật, vẫn còn nguyên nụ cười im lặng.



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
15/01/2021(Xem: 4101)
Vào buổi sáng ngày 13 tháng 1 vừa qua, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã tổ chức một buổi tiếp kiến ảo với ông Robert A. Destro, Trợ lý Ngoại trưởng Mỹ về Dân chủ, Nhân quyền và Lao động, và Điều phối viên đặc biệt Hoa Kỳ về các Vấn đề Tây Tạng. Ông đã tham gia cùng các đồng nghiệp của mình từ Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ. Ông Robert A. Destro được bổ nhiệm làm Điều phối viên đặc biệt Hoa Kỳ về các Vấn đề Tây Tạng theo Đạo luật Chính sách Tây Tạng vào ngày 14 tháng 10 năm ngoái.
15/01/2021(Xem: 4580)
Tháng một năm 2021, dự kiến một nhóm gồm 10 nhà khoa học quốc tế của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) sẽ đến thành phố Vũ Hán, Trung Quốc, điều tra nguồn gốc bệnh cúm Covid-19. WHO đang cố tìm ra nguồn gốc của virus gây bệnh cúm Covid-19 để ngăn chặn các đợt bùng phát trong tương lai. Dù virus xuất phát từ các chợ động vật hay các phòng thí nghiệm ở Vũ Hán, các nhà khoa học đều nhất trí giả thuyết virus có từ động vật. Loài dơi. Tháng 1 năm ngoái, khi Vũ Hán xuất hiện những ca nhiễm đầu tiên, các nhà dịch tễ học đã tìm thấy chủng virus corona ở một chợ bán động vật ở Vũ Hán, tỉnh Hồ Bắc, Trung Quốc. Những hình ảnh về sở thích ăn dơi sống, tiết canh dơi của người Vũ Hán lập tức được lan truyền khắp thế giới ngay khi dịch xuất hiện ở Vũ Hán. Các nhà khoa học cho rằng nguyên nhân của đại dịch là do virus corona lây lan từ động vật sang người.
15/01/2021(Xem: 4762)
Người xuất gia khi cạo râu cắt tóc (thế trừ tu phát, 剃除須 髮 [1]), từ bỏ cuộc sống gia đình, thệ nguyện theo con đường học đạo, giải thoát cho mình và cho chúng sinh. Người xuất gia nguyện không bị ràng buộc bởi phiền não của quá khứ và lo toan của tương tai. Bởi quá khứ đã đi qua, tương lai thì chưa tới. Bỏ mặc căn nhà, bỏ mặc tôi Bỏ mặc nơi đây, bỏ mặc người Bỏ trăm năm sau, ngàn năm nữa[2]
15/01/2021(Xem: 4642)
Niết Bàn là đích của người tu. Kinh văn Phật đề cập Niết Bàn, nơi chốn cực đẹp, ở đó không có phiền não, có bảy tầng lan can, bảy tầng lưới mành, bảy lớp hàng cây, đều bằng bốn báu vây quanh trọn khắp (thất trùng lan thuẫn, thất trùng la võng, thất trùng hàng thụ, giai thị tứ bảo châu táp vi nhiễu-七 重 欄 楯。七 重 羅 網。七 重 行 樹。皆 是 四 寶 周 繞[1]; Niết Bàn, một trạng thái viễn ly điên đảo mộng tưởng(遠離顛倒夢想[2].)
13/01/2021(Xem: 4467)
Vào thời đại này, kể cả đứa trẻ ba tuổi cũng biết dùng máy vi tính rất rành. Ngay trong sự sanh hoạt ngày thường, con người chỗ nào cũng đều có cơ hội tiếp xúc đến máy vi tính, như là xe hơi, dụng cụ nhà bếp, máy móc thương nghiệp, cơ giới công nghiệp, dụng cụ điều trị, thậm chí trong đồ chơi của trẻ con cũng có trang trí máy vi tính lớn nhỏ phức tạp và đơn giản không giống nhau. Đến nỗi ở trong cơ quan điều khiển tinh vi, máy vi tính lại càng không thể có khuyết điểm, chẳng hạn như Phi Cơ, Tàu Thủy, Tín Hiệu Vô Tuyến Truyền Đạt..v..v.... đều an trí máy vi tính rất đầy đủ cao cấp. Chính nơi trang bị quân sự, máy vi tính lại càng trọng yếu hơn. Cho nên con người hiện nay sanh hoạt đều càng ngày càng ỷ lại nhiều vào máy vi tính thì nó càng quan trọng hơn.
13/01/2021(Xem: 4591)
Tăng đoàn của Trung tâm Thiền Phật giáo Berkeley đã thông báo rằng, Trưởng lão Thiền sư Mel Weitsman (Tông Thuần, Sōjun, 宗純), vị Trưởng lão Thiền sư đáng kính của Thiền phái Tào Động (Sōtō Zen, 曹洞宗), Phật giáo Nhật Bản, vị Giáo thọ sư nổi tiếng đã viên tịch vào hôm thứ Năm, ngày 7 tháng 1 năm 2021. Hưởng thượng thọ 91 tuổi. Trưởng lão Thiền sư Mel Weitsman, người cùng với Trưởng lão Thiền sư Shunryu Suzuki Roshi (pháp danh Shōgaku Shunryū, 祥 岳俊隆, 1901-1971), đồng sáng lập Trung tâm Thiền Phật giáo Berkeley, một trung tâm thực hành Thiền phái Tào Động, Phật giáo Nhật Bản tại Berkeley, California, Hoa Kỳ vào năm 1967.
12/01/2021(Xem: 6330)
Kính thưa quý Phật tử, đồng hương xa gần kính mến, Trái đất xoay tròn, một năm nữa lại đến. Gió xuân, mai đào, bánh chưng, bánh tét... đang đem niềm vui mùa xuân đến cho hành tinh chúng ta. Quý Ni sư kính lời vấn an sức khỏe đến quý Phật tử, tri ân tình thương của quý vị trong thời gian qua, nhất là trong mùa đại dịch Covid Corona, quý vị luôn đồng hành ủng hộ để Chùa Hương Sen được yên ổn sinh hoạt và an tâm tu tập, tụng niệm.
12/01/2021(Xem: 4464)
Vương quốc Phật giáo Bhutan với diện tích và dân số khiêm tốn trên Himalaya đã báo cáo có ca COVID-19 đầu tiên tử vong, khoảng 10 tháng sau khi ca đầu tiên phát hiện Viruscorona, và cố gắng kiểm soát dịch bệnh bằng cách phong tỏa phần lớn đất nước phụ thuộc vào du lịch. Trong một thông báo đưa ra vào cuối ngày thứ Năm, ngày 7 vừa qua, Bộ Y tế Bhutan cho biết một người đàn ông 34 tuổi đã tử vong tại một bệnh viện ở thủ đô Thimphu do Covid-19, tiền sử có bệnh nền như gan mãn tính và suy thận, có kết quả xét nghiệm dương tính.
09/01/2021(Xem: 6841)
“Tha Nhân Là Địa Ngục” (L’enfre, cest les autres/Hell is other people) là câu nói thời danh của triết gia Pháp Jean Paul Sartre. Trong vở kịch nhan đề Huis Clos (Cửa Đóng) tiếng Anh dịch là “Không lối thoát” (No Exit) và tiếng Việt có nơi dịch là “Phía Sau Cửa Đóng” trong đó mô tả ba nhân vật lúc còn sống đã làm nhiều điều xấu. Khi chết bị nhốt vào địa ngục nhưng không phải là “địa ngục” với những cuộc tra tấn ghê rợn về thể xác mô tả trong các tôn giáo, mà bị nhốt vĩnh viễn trong một căn phòng kín. Tại đây ba nhân vật bất đồng, cãi vã nhau- không phải vì cơm áo mà vì quan điểm, sở thích, cách suy nghĩ, tư tưởng, lối sống. Cuối cùng một người không sao chịu đựng được đã thốt lên “Tha nhân là địa ngục”. Câu nói này trở nên nổi tiếng và tồn tại cho tới ngày nay.
07/01/2021(Xem: 5950)
Vào năm 2004, Thư Viện Anh Quốc đã mở cửa đón khách vào thưởng một “pháp bảo” của Phật giáo Trung Hoa mang tên “Kinh Kim Cang”, đó là một trong những cổ vật chính được trưng bày tại cuộc triển lãm “Con Đường Tơ Lụa. Bên cạnh cuốn “Kinh Kim Cang” còn có những cổ vật khác được giữ gìn hoàn hảo hơn 1000 năm qua như : một súc lụa, một tấm thảm trải trước lò sưởi tại ngôi nhà bỏ hoang đã 1.100 năm, một cuộn len 1300 năm tuổi … Phần lớn cổ vật trưng bày tại triển lãm được lấy từ bộ sưu tập của Sir Marc Aurel Stein.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]