Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

1. Lý Tưởng

25/02/201116:59(Xem: 5034)
1. Lý Tưởng

THỬ HÒA ĐIỆU SỐNG
Võ Đình Cường

Lý Tưởng

Lý tưởng chỉ hướng cho thuyền đời và nẩy hoa cho cuộc sống !

Anh kể một chuyện xưa: Xưa có người láng giềng của Dương Chu mất dê. Sau khi đã sai tất cả người nhà đi tìm, ông còn qua thưa với Dương Chu cho mượn thêm một người nữa đi tìm hộ. Dương Chu ngạc nhiên hỏi ?

- Sao mất có một con dê mà phải lắm người đi tìm thế ?

- Người láng giềng thưa: Vì đường lắm ngã ba.

Đến chiều tối người mất dê trở về. Dương Chu hỏi: Sao có tìm được dê không?

- Thưa không tìm được.

- Đông người thế sao lại không tìm được ?

Thưa, vì đường lắm ngã ba. Cứ đi một đoạn lại gặp ngã ba, rồi theo một trong những ngã ba ấy lại gặp ngã ba nữa, thành thử không biết theo đường nào để gặp dê, nên đành phải về không tất cả.

Em ạ, cũng thế, đường đời có muôn vạn nẻo. Nếu không sẵn có một chí hướng, một lý tưởng, thì cũng dễ lạc đường. Bơ vơ giữa muôn lối quấn quanh, người ta quấn quanh theo muôn lối, cho đến tối chiều, sương pha đã bạc nữa mái tóc sầu, mà nhìn lại chốn mình đã lên đường từ lúc ban mai còn rực rỡ, thì ôi, nào có cách bao xa ! bây giờ vừa ngạc nhiên, vừa tủi hổ cho phận mình có đi mà không tới, người ta gục ngã bên đường, nằm khóc trong đêm đen, để đợi một ban mai không bao giờ trở về với tuổi già của họ nữa.

Muốn đi xa, không phải chỉ bước mãi, bức hoạ đẹp không phải chỉ gồm nhiều nét hay, muốn thực hiện đời mình, không phải chỉ xung xăng hoạt động là đủ. Kẻ sành đi đường tìm hướng trước khi đi, hoạ sĩ có tài phác hoạ bức tranh mình sắp vẽ. Nhười đời không ai thiếu lý tưởng mà có thể thành đạt được. Lý tưởng, ngọn đèn treo cao trong đêm tối đời, vừa chỉ đường cho bao kẻ lạc hướng, vừa dồn năng lực vào một chỗ, như tình yêu của mẹ hấp dẫn đàn con quanh mình. Không có nó thì dù có tài cán bao nhiêu đi nữa, cũng bị tản mác một cách vô ích như đám người đi tìm dê kia, tuy đông mà không tìm dê lại được.

Vả lại, không có gì vô vị bằng một đời sống không lý tưởng. Sau những năm thơ ấu mà cuộc đời đối với đứa bé là một sân khấu để mỗi phút nó mỗi ngạc nhiên reo mừng, đây rồi cái tuổi trưởng thành, tấn tuồng ấu thơ vừa vãn, đôi ngã tẻ nhạc mở lối ra trước mắt người thiếu lý tưởng.

Một ngã phẳng buồn đưa đến sự an nhàn xuôi chiều theo hai nhịp ăn ngủ, ngủ ăn, những buổi mai nhạc, chán ngán nằm lì không muốn dậy, và những buổi tối, đặt mình xuống chiếu, không chút náo nức với dự định ngày mai, ôi cuộc đời ở đây bạc nhược, lờ đờ trôi như dòng nước óc khuấy loãng.

Một ngã đỏ rực đưa đến sự quay cuồng, như chiếc lá vàng rơi trước cơn gió lốc. Ở đây người ta sống giữa cảnh rối ren không được một phút tỉnh táo để xem mình đang ở đâu và tìm một phương hướng thích hợp với mình. Bừng mắt dậy giữa khuya và chợt thấy nhà mình đang ngùn ngụt cháy, đấy là tâm trạng loạn động của những hạng người đi trên đường này.

Để tránh hai con đường ấy, chỉ có một cách là vạch lấy một lối đi theo lý tưởng của mình.

Vẫn biết lý tưởng chỉ hướng cho thuyền đời và nẩy hoa cho cuộc sống, nhưngtìm được lý tưởng không phải là một chuyện dễ. Đứng trước những ngã ba, ngã tư hào nhoáng và lộng lẫy, người trẻ thơ mới đụng chạm với đời như em, biết sao được những uẩn khuất dấu trên đường mình chưa đi qua ? Và như thế họ phân vân là phải. Người đi tìm dê, boăn khoăn trước những ngã ba vì không biết đi đường nào cho gặp dê, thì người tìm lý tưởng do dự mãi trong sự tìm kiếm của mình cho đến lúc mỏi gối chồn chân, đành trở về tay không, cũng không phải là một chuyện lạ. Em nghĩ, thật ra lý tưởng không phải thiếu cho người, mà chính phần nhiều người đời thiếu lý tưởng vì quá phân vân trong sự lựa chọn lý tưởng.

Cũng có phần đúng trong lời em nói. Nhưng người đi tìm dê, vẫn khác hơn người đi tìm lý tưởng. Một đàng tìm vật ở ngoài, một đàng tìm ở trong. Tìm lý tưởng trước hết là tìm ta, tìm những khả năng của lý trí, tình cảm, thể chất, để nhận rõ ta, rồi dựa vào những điều ta có thể làm được để phác hoạ một cái ta sau này, cái ta thật của ta, cái ta mong ước. Khi đã biết rõ ta như thế, thì đường đời có muôn vạn ngã, mà chỉ có một ngã là thích hợp với ta mà thôi. Người đời thường phân vân trong sự lựa chọn lý tưởng, vì họ không tự biết mình. Có người tưởng mình có đủ tài năng nên muốn ôm cả mọi việc, mà rốt cuộc chẳng thành được việc gì. Có người tưởng mình không có một chút khả năng nào nên không dám nhận một việc nào cả. Nhưng đã là người, thì vụng về bao nhiêu cũng có vài đặc điểm, dù khôn khéo bao nhiêu cũng chẳng hoàn toàn. Chi bằng ta đi theo con đường ta biết có thể đến đích được. Ấy là thuật mầu nhiệm nhất để được thấy ánh sáng rực rỡ của ngày thành công.

Nhưng tìm lý tưởng, dù sao cũng chưa khó mấy. Khó nhất là giữ vững lý tưởng mình. Nhiều người sau vài lần thất bại, bỗng quay lái thuyền đời. Họ không ngờ rằng ở đây cũng như mọi trường hợp khác, kiên chí vẫn là mẹ đẻ của thành công. Trên đường lý tưởng, không phải lúc nào cũng có hoa và bướm. Đừng thấy những đoạn gai gốc khó đi mà vội rẽ sang lối khác, nó cũng đang dàn bày cho em cái hào nhoáng nhất thời. Cứ quyết chí theo hướng của ta đi, rồi chậm hay mau, thế nào cũng có ngày đến đích.

Em ạ, sóng triều rào rạt mỗi ngày hai bận xuống lên, kẻ thấp chí bạc tài thì theo nó mà ra vào sông bến cũ.

Những kẻ kiên tâm cả chí, thì dù sóng gió tơi bời, cũng cố ra sức chống chèo cho qua cơn biển động. Qua cơn biển động ấy rồi gió thuận căng buồm, sẽ đẩy vút thuyền ta đến những bến trời mới lạ.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
27/02/2021(Xem: 4499)
Myanmar, đất nước chùa tháp, đang khổ đau. Hưởng ứng lời hiệu triệu kêu gọi của chư tôn tịnh đức tăng già Phật giáo “vì dân, do dân và của dân”, hàng triệu người dân trong mọi tầng lớp đã đổ ra đường phố ở các thị trấn và thành phố trên khắp đất nước Phật giáo Myanmar để phản đối cuộc đảo chính của chế độ độc tài quân sự Myanmar, đã lật đổ Chính phủ dân cử của nhà vô địch dân chủ kỳ cựu, nữ cư sĩ Phật tử Aung San Suu Kyi, Cố vấn nhà nước Myanmar, Chủ tịch và Tổng Bí thư Đảng Liên minh Quốc gia vì Dân chủ (NLD) vào ngày 1 tháng 2 vừa qua.
25/02/2021(Xem: 7316)
Phần này bàn về cụm danh từ "khoa học" trong tiếng Việt từ thời bình minh của chữ quốc ngữ đến nay. Các tài liệu tham khảo chính của bài viết này là cuốn "The Emergence of the Modern Sino-Japnese Lexicon – Seven Studies" (chủ biên/dịch giả Joshua A. Fogel – NXB Brill – Leiden/London 2015), và bốn tác phẩm của LM de Rhodes soạn: (a) cuốn Phép Giảng Tám Ngày (viết tắt là PGTN), (b) Bản Báo Cáo vắn tắt về tiếng An Nam hay Đông Kinh (viết tắt là BBC), (c) Lịch Sử Vương Quốc Đàng Ngoài 1627-1646 và (d) tự điển Annam-Lusitan-Latinh (thường gọi là Việt-Bồ-La, viết tắt là VBL) có thể tra tự điển này trên mạng, như trang http://books.google.fr/books?id=uGhkAAAAMAAJ&printsec=frontcover#v=onepage&q&f=false.
25/02/2021(Xem: 4726)
Vào hôm thứ ba, ngày 16 tháng 2 vừa qua, Đoàn thể Phật giáo Myanmar đã Tuần hành phản kháng chế độ độc tài quân sự Myanmar, tham gia chiến dịch chấm dứt chế độ độc tài quân sự Myanmar dưới sự cai trị hung hãn của các tướng lĩnh quân đội, và trả tự do cho các nhà lãnh đạo bị giam giữ của Chính phủ dân cử bị lật đổ, bao gồm cả nữ cư sĩ Phật tử Aung San Suu Kyi, Cố vấn nhà nước Myanmar, Chủ tịch và Tổng Bí thư Đảng Liên minh Quốc gia vì Dân chủ (NLD).
23/02/2021(Xem: 4822)
Ngày càng có thêm nhiều bằng chứng về việc xây dựng Quân đội giải phóng nhân dân Trung Quốc (PLA) và các cơ sở dân sự ở các khu vực khác ngoài Ladakh, một khu vực ở bang Jammu và Kashmir của Ấn Độ. Nó kéo dài từ Siachen Glacier trong phạm vi Karakoram đến Himalaya ở phía nam và có người gốc các dân tộc Ấn-Arya và Tây Tạng, chẳng hạn như dọc theo biên giới tranh chấp ở Vương quốc Phật giáo Bhutan và Arunachal Pradesh, một trong hai mươi chín bang của Ấn Độ.
23/02/2021(Xem: 5241)
Phật Giáo Việt Nam kể từ khi lập quốc (970) đến nay đã đóng góp rất lớn cho nền Văn Học Việt Nam qua các triều đại Đinh, Lê, Lý, Trần..v..v.. nhưng không có một Quốc Sử Việt Nam nào ghi nhận cả, điều đó thật là đau buồn, mặc dù Phật Giáo Việt Nam thời bấy giờ và cho đến bây giờ không cần ai quan tâm đến. Phật Giáo Việt Nam nếu như không có công gì với núi sông thì đâu được vua Đinh Tiên Hoàng phong Thiền sư Ngô Chân Lưu đến chức Khuông Việt Thái Sư và chức Tăng Thống Phật Giáo Việt Nam vào năm Thái Bình thứ 2 (971). Cho đến các Thiền sư như Pháp Thuận, Vạn Hạnh,v..v.... đều là những bậc long tượng trong trụ cột quốc gia của thời bấy giờ, thế mà cũng không thấy một Quốc Sử Việt Nam nào ghi lại đậm nét những vết son cao quý của họ.
23/02/2021(Xem: 10198)
Văn học thời Trần là giai đoạn văn học Việt Nam trong thời kỳ lịch sử của nhà Trần (1225 – 1400). Văn học thời Trần tiếp tục và có nhiều bước tiến bộ rõ rệt hơn so với văn học thời Lý (1010 – 1225). Văn học thời Trần chịu ảnh hưởng của Phật giáo và Nho giáo. Tư tưởng Phật giáo chủ yếu trong văn học thời Trần là tư tưởng thiền học.
23/02/2021(Xem: 8950)
Trong nội dung của ấn bản lần thứ hai của quyển “Tư tưởng Phật giáo trong Văn học thời Lý”, chúng tôi vẫn giữ những điểm chính quan trọng của ấn bản lần thứ nhất. Tuy nhiên, chúng tôi đã sửa chữa và bổ sung một vài nơi. Chúng tôi đánh giá cao sự góp ý và phê bình của: GS Lưu Khôn (Cựu GS tại trường ĐHVK Saigon và Cần Thơ), GS Khiếu Đức Long (Cựu GS tại ĐH Vạn Hạnh), Ô. Nguyễn Kim Quang (Cựu học sinh Lycée Petrus Ký 1953-1960), cố Kỹ Sư Nguyễn Thành Danh (Vancouver, Canada). Trong khi viết quyển sách này lần thứ nhất vào năm 1995, chúng tôi đã được sự giúp đỡ và góp ý của các thân hữu: cố Hoà Thượng Thích Nguyên Tịnh (Cựu Trú trì Chùa Thiền Tôn, Vancouver, Canada), cố GS Nguyễn Bình Tưởng (Cựu Hiệu Trưởng trường Trung Học Vĩnh Bình, và Cựu Giám Học trường Trung Học Nguyễn An Ninh, Saigon), chúng tôi chân thành cám ơn quý vị này.
20/02/2021(Xem: 6031)
Thơ tụng tranh chăn trâu của thiền sư Phổ Minh gồm tất cả mười bài thơ “tứ tuyệt” cho mười bức tranh chăn trâu với các đề mục sau đây: 1. Vị mục: chưa chăn 2. Sơ điều: mới chăn 3. Thọ chế: chịu phép 4. Hồi thủ: quay đầu 5. Tuần phục: thuần phục 6. Vô ngại: không vướng 7. Nhiệm vận: theo phận 8. Tương vong: cùng quên 9. Độc chiếu: soi riêng 10. Song mẫn: cùng vắng
20/02/2021(Xem: 8729)
Kinh Hoa Nghiêm được giải thích là kinh đầu tiên khi Phật đạt chánh đẵng chánh giác sau 49 ngày thiền định. Sau đó người giảng kinh Hoa Nghiêm cho chư thiên và bồ tát là giảng bằng thiền định tâm truyền tâm nên im lặng suốt 21 ngày. Kinh Hoa Nghiêm nói về Tâm. Kế đến Kinh Lăng Già Phật cũng giảng cho Ma vương và ma quỷ sống trong hang động ở đỉnh núi Lăng Già. Phật giảng bằng tâm truyền tâm ấn nên không có nói bằng lời và giảng về Thức vì Ma vương không còn uẩn sắc nữa mà chỉ còn là tâm thức. Kinh Lăng già là giảng về Duy Thức Luận. (bài viết của cư sĩ Phổ Tấn)
20/02/2021(Xem: 4924)
Washington: Theo báo cáo của The Economist, Trong nỗ lực mới nhất nhằm thắt chặt vòng vây Tây Tạng, Trung Cộng đang buộc người Tây Tạng ít quan tâm đến tôn giáo của họ hơn, và thể hiện nhiệt tình hơn đối với chế độ độc tài của Đảng Cộng sản Trung Quốc do Tập Cận Bình lãnh đạo tối cao. Đảng Cộng sản Trung Quốc đã tăng cường nỗ lực phủ nhận vai trò của Đức Đạt Lai Lạt Ma ra khỏi đời sống tôn giáo của người dân Tây Tạng để xóa bỏ danh tính của họ. Đảng Cộng sản Trung Quốc đã cưỡng chiếm Tây Tạng vào giữa thế kỷ 20 sau thập niên 1950, và kể từ đó đã kiểm soát khu vực cao nguyên tại Trung Quốc, Ấn Độ, Bhutan, Nepal, và Pakistan tại châu Á, ở phía bắc-đông của dãy Himalaya..
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]