Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

10. Ngày Giỗ Má

25/02/201110:43(Xem: 5221)
10. Ngày Giỗ Má

SUỐI NGUỒN YÊU THƯƠNG
Tâm Chơn

NGÀY GIỖ MÁ

Đứa em nhắn tin... mấy chị điện thoại... tôi cũng hô hào réo gọi, chỉ với một nội dung cũ rích: “Nhắn về đám giỗ má.” Đứa nào đứa nấy làm như chỉ có mỗi mình mình là biết lo xa, là nhớ ngày cúng má vậy. Ừ, mà cũng có thể lắm chứ! Bởi cuộc sống mưu sinh đầu tắt mặt tối hay nhởn nhơ trên đường danh lợi cũng đều dễ làm cho con người ta quên bẵng đi những gì đáng nhớ. Chừng khi sực tỉnh ra thì thường là trễ tràng.

Nhưng nói gì thì nói, khi cha mẹ mất rồi thì đến đứa con cứng đầu cứng cổ, nghịch ngợm, lì lợm cỡ nào cũng nghe lòng trống trải quạnh hiu và da diết nhớ nhung mỗi khi chiều muộn. Huống hồ là bọn tôi, dẫu không ít lần làm phiền lòng má nhưng xét ra cũng không đến nỗi bị người đời nguyền rủa. (Chà! nếu để thiên hạ kêu rêu chắc có nước độn thổ luôn quá!).

Cho nên, việc anh chị em tôi xót xa, hoài vọng “ân đức sinh thành” hẳn là chuyện rất đỗi bình thường, chẳng có gì ghê gớm, dữ dội. Nhưng bình thường không có nghĩa là tầm thường. Xin đừng hiểu lầm rồi phớt lờ, cho qua việc khắc cốt ghi tâm công cha nghĩa mẹ nhé!

Thật ra, kể từ ngày má nằm thật yên, ngủ giấc ngủ dài không bao giờ thức nữa thì gia đình tôi mỗi đứa một nơi, mỗi người một ngả. Hoạ hoằn lắm một năm mới gặp mặt đôi ba lần, bằng không thì chỉ ngày giỗ má mới sum họp được thôi.

Chúng tôi luôn cố gắng thu xếp công ăn việc làm để về đúng ngày giỗ má. Về không phải để tổ chức cúng kiếng nổi đình nổi đám gì, mà cốt là anh em đoàn tụ. Do đó, không cứ gần ngày giỗ má chúng tôi mới tất tả gọi nhau mà ngay cả hơn nửa năm về trước là tụi này đã liên lạc nhắc nhủ nhau rồi. Báo trước như vậy không phải sợ quên ngày, mà chủ yếu tranh thủ thời gian tới ngày cúng má về cho đầy đủ.

Năm nào cũng thế, chỉ với mâm cơm chay đạm bạc thôi mà mặn nồng tình nghĩa. Anh em tôi quây quần bên nhau để mà nhớ mà thương, mà nhắc xa nhắc gần, mà sẻ chia buồn vui gia tộc, và cũng là để hâm nóng lại tình thâm máu mủ.

Thiệt tình mà nói, ngày cúng má đúng là dịp để con cái của má gặp lại nhau, chớ nói là tưởng nhớ, tưởng niệm thì hổng lẽ chỉ tới ngày này mới làm được thôi sao? Có điều, cái tưởng nhớ hằng ngày thường riêng lẻ, dễ tản mác giữa dòng đời chen chúc này lắm.

Còn chuyện má có theo hương khói về chứng giám cho đàn con hay không thì tôi mù tịt. Tôi chỉ biết rằng hình ảnh người mẹ hiền sớm hôm dầu dãi mưa nắng tảo tần vẫn hằng in đậm trong tâm trí tôi. Nếu hỏi ra cái gì gợi nhớ thì vóc dáng nhỏ em là giống má hơn hết. Nhất là khuôn mặt. Ai cũng nói, nhìn nó là nhớ tới má tôi. Còn nó, mỗi lần soi gương chẳng biết có phát hiện ra nó giống má hay không khi ngày má về đất nó hãy còn khờ khạo?

Điều này tôi cũng không rõ. Tôi chỉ thấy là nó cũng y hệt như tôi, mỗi khi gặp chuyện gì buồn là rơi lệ. Nhưng tôi thì còn kể lể này nọ nọ kia chớ nó tuyệt đối một mực im ru như để lắng nghe giọt vắn giọt dài lăn xuống bờ môi mặn đắng.

Nó không nói nhưng tôi cũng hiểu là nó đang bị “sốc” vì thói đời đen bạc, vì chưa kịp quen va chạm sóng gió cuộc đời. Nó có sức chịu đựng hơn tôi mà lắm lúc cũng cam đành khóc với người thân thì phải biết là nó đang bị nỗi đau đớn dồn nén hoành hành cùng cực. Chứ thường thì nó chỉ thui thủi một mình. Hổng biết nó có than thở: “Phải chi còn có má”như tôi hông nữa?

Vâng! Phải chi còn có má để anh chị em tôi chạy sà vào lòng má những khi vấp phải chông chênh dòng đời. Thiết nghĩ, ước ao chẳng của riêng ai, tất cả những người con đều thèm được sự chở che, nâng đỡ, dìu dắt của cha mẹ bên bờ trong đục. (Vậy mà lúc cha mẹ còn, chúng ta đã không để tâm tới sự hiện hữu của người, đã không nhận ra hạnh phúc đích thực trong sự có mặt của cha mẹ. Đến khi cha mẹ mất rồi mới thấy mình hụt hẫng...)

Nhưng nỗi niềm mồ côi thì chẳng khác gì nhau, ai cũng như ai. Mà hình như thân phận kẻ mồ côi thường dễ mau nước mắt. Nó như nằm sẵn đâu đó, chực chờ trong tích tắc, hễ bị khúc mắc, cay lòng là tuôn ra cho hả hê sầu não. Chỉ riêng nói về tôi thôi cũng đủ bực mình rồi. Người gì mà “mít ướt” thấy sợ! Đọc một bài báo, nghe một lời ca, xem một vở tuồng nào... mà có dính dấp đến tình mẫu tử là rơm rớm nước mắt liền.

Có chuyện này mới thật “dở hơi” chứ! Tính ra đâu dăm ba lần gì rồi. Đang ngồi trongên xe buýt đến trường, thường là tôi hay đọc sách, gặp phải câu chuyện viết về mẹ, con mắt tôi bỗng đỏ hoe. Biết thân biết phận mình dễ mủi lòng, tôi cúi mặt xuống làm bộ như bị cay mắt, lấy tay dụi dụi cho qua cơn xúc cảm rồi đưa mắt nhìn qua ô cửa nhỏ ngó nhìn thiên hạ hối hả ngược xuôi hòng xua tan nỗi niềm âm ỉ. Nói chung là tôi cố đánh trống lãng cái trống vắng mênh mông trong lòng cho nỗi nhớ tạm lắng yên.

Mà ngộ thiệt. Người có tâm sự buồn lại thích coi truyện buồn, y như đứa con nít sợ ma cứ ưa đòi nghe kể chuyện ma vậy. Thảo nào, cứ đem thê lương áo não tưới tẩm miết thì thử hỏi làm sao hạt giống muộn phiền không mau sinh sôi nảy nở? Mà nào có ai muốn vậy đâu nè! Chắc tại... với bị... thôi.

À! Còn chuyện này mới là kỳ cục. Đi đám tang nhà người ta không nhờ mà tôi cứ muốn “xúc động” giùm mới bậy bạ chứ. Tang gia hiếu quyến họ thì tỉnh queo bên cỗ quan tài lạnh ngắt giữa tiếng trống nhạc om sòm, còn tôi thì nghèn nghẹn, nước mắt muốn chực trào. Phải chăng tôi đang nhớ ba, nhớ má? Hay vì thương người ra đi, xót xa cho người ở lại? Tôi cũng không rõ nữa. Tôi chỉ thấy rằng sự mủi lòng đeo đẳng như mớ bòng bong rối nùi.

Ồ! Mắc mớ gì mình? Tự dưng lại nhớ ba nhớ má trong lúc này? Cái duyên cắc cớ thật.

Ừ!... Thì ba má mình, mình nhớ, có gì đâu mà mắc cỡ? Chả lẽ, cái thời buổi rộn ràng tất bật hiếm hoi giờ giấc này không có đến một nơi để người ta trút cạn lòng mình? (Còn thản nhiên kiểu như tôi là hơi quá rồi đấy, phải không?)

Bao nhiêu nỗi niềm, cảm xúc, tâm tư phải biết nén lại, đông cứng nó đi, hoặc neo vào một góc kín đáo để thế nhân không liên lụy. Mà có ai ở không đâu để dòm ngó chuyện người dưng nước lã. Cuộc sống vội vàng, hối thúc này đôi khi còn làm cho người ta quên chính bản thân mình nữa là khác. Ừ, chỉ tại tôi ảo giác!

Nhưng thật tình mà nói, tuổi trẻ bây giờ “cứng cáp” đến nỗi dửng dưng lạnh lùng trước những thâm tình. Hay cũng là do cuộc đời vốn dĩ đã quá khổ đau, sầu thảm nhiều rồi nên người ta ngại nhìn thấy nó nữa? Người ta cố tìm cái vui hào nhoáng bên ngoài dù trong thoáng chốc cho qua ngày đoạn tháng. Thì cũng có người “tiến bộ” hơn một chút, tức là thỉnh thoảng cũng săn tìm nguồn cảm xúc mạnh để thử thách con tim mình coi nó còn động đậy hay đã chai sạn rồi? (Cách này nghĩ cũng hay hay!...)

Thế nên, cái chuyện chị em chúng tôi gấp rút gọi nhau kể ra cũng không phải là thừa thải. Nhưng ngặt nỗi là tôi lại hay lằng nhằng có dây có nhợ như vậy đó. Nhắc ngày giỗ má mà nghĩ ngợi lung tung!

TP. HCM, Tháng 3/2007


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
02/11/2010(Xem: 8835)
aukhi D.T. Suzuki qua đời, hội Phật giáo Hoa kỳ góp nhặt các bài viết cuối cùng củaông để in thành sách với tựa đề "Lãnhvực của Thiền học Zen" (TheField of Zen, 1969) và bốn mươi năm sau quyển sách này được dịch sang tiếngPháp với tựa đề "Những bài viết cuốicùng bên bờ của cõi trống không" (DerniersÉcrits au bord du Vide, 2010). Dưới đây là một trong số các bài được tuyểnchọn trong quyển sách này.
31/10/2010(Xem: 9726)
Đức Phật dạy có năm sự khéo léo trong giao tiếp đem đến nhiều kết quả tốt đẹp. Theo ngài Xá Lợi Phất, không tuân theo năm cách xử sự này sẽ đem đến những hậu quả...
31/10/2010(Xem: 10501)
Bài nầy do Chân Văn dịch từ Chương Bốn trong quyển "Living Buddha, Living Christ" của Thích Nhất Hạnh, Riverheads Book xuất bản 1995. Quyển sách gồm nhiều bài giảng bằng Anh ngữ của Thầy, được ghi âm, chép lại và nhuận sắc. Ðây là một quyển sách đã bán được rất nhiều trong loại sách về tôn giáo và tâm linh ở Hoa Kỳ. Theo lối quen dùng trong các sách Việt ngữ của Thầy, từ "Buddha" được dịch là "Bụt", một từ trong tiếng Việt cổ dùng để phiên âm "Buddha" khi đạo Phật được truyền vào Việt Nam vào đầu kỷ nguyên Tây lịch. Về sau, từ khi người Việt dùng kinh sách chữ Hán, từ "Phật" hay "Phật Ðà" (tiếng Hán Việt) được dùng thay từ "Bụt". Bài dịch nầy đã được đăng trên tạp chí Thế Kỷ 21, California, Hoa Kỳ, tháng 11-1995
31/10/2010(Xem: 9990)
Tham sống sợ chết, đó là sự thật của người đời. Thế nhưng tại sao lại giết hại, cắt đứt sự sống của chúng sanh khác? Trong bài viết ngắn này chúng tôi sẽ đề cập đến vấn đề "Không sát sanh" hay "tôn trọng sự sống" như là thái độ sống của một người Phật tử.
29/10/2010(Xem: 8472)
Linh hồn sẽ tồn tại sau khi chết có hay không ? Sau đây bài viết “Linh Hồn và Cõi Âm” của GS TS Bùi Duy Tâm (sống tại Francisco, CA 94122, USA). Từ chỗ chưa có cơ sở để tin cậy vào sự tồn tại vong linh của con nnep song daogười, GS Tâm đã kiên trì tìm hiểu vấn đề tâm linh và cuối cùng đã rút ra kết luận chắc chắn rằng : sự sống sau cái chết là có thực !
29/10/2010(Xem: 9429)
Có người cho rằng chữ niệm ở trong vô niệm cũng giống như chữ niệm ở trong chánh niệm. Không phải vậy!Chữ niệm ở trong vô niệm có nghĩa là một tư tưởng, một cái tưởng, một tri giác (perception), một ý niệm (idea), một quan niệm (notion). Vô niệm tức là vượt thoát những tư tưởng, những ý niệm, những tri giác đó. Tại vì mình có những tư tưởng, những ý niệm, những tri giác đó, và đôi khi mình đồng nhất nó với sự thật tuyệt đối. Vì vậy mình phải vượt thoát ý niệm đó thì mình mới có thể tiếp xúc được với sự thật.
28/10/2010(Xem: 8771)
Córất nhiều loại cảm xúc khác nhau, và chúng đều là sựphóng chiếu của tâm. Các cảm xúc vốn không tách rời khỏitâm, nhưng vì chúng ta chưa nhận được bản chất tâm, nênchúng ta vẫn coi chúng như những thể tách rời và khác biệt.Tâm chúng ta cứ hết sân hận, ganh tị rồi lại mừng vui,phấn khích - đủ mọi cung bậc thăng trầm của cảm xúc.Thực sự chúng ta chưa hiểu được mình đang trải nghiệmnhững gì, ta thực sự là ai, ai đang thực sự sân giận hayvui vẻ, ai đang nản lòng hoặc tràn trề hứng khởi: điềugì đang thực sự diễn ra? Trên thực tế
28/10/2010(Xem: 8146)
Kính lễ Kim Cương Thượng Sư Tôn! Đấng Pháp Vương Drukpa tôn quý, Ngài là chủ hết thảy Đạo sư, Mang phúc lợi nhiêu ích hữu tình. Dưới gót sen cao quý quang vinh, Dốc lòng thành con nguyện quy kính! Đức Long Thọ Bồ Tát dạy rằng: “Giới luật, giống như căn bản của thế và xuất thế, là nền tảng của hết thảy trí tuệ”.
28/10/2010(Xem: 8551)
Chủ nhật vừa qua tôi hết sức vui mừng vì đã thuyết bài Pháp đầu tiên tại Singapore. Ðương nhiên khi nhìn thấy số thính chúng nhiệt tình mộ đạo như vậy và khi trông thấy giảng đường chật kín, có số người còn đứng tràn ra ngoài, tôi vô cùng phấn khởi, sau đó tôi bắt đầu tìm hiểu nguyên nhân nào đưa đến một số thính chúng tham dự đông đảo nồng nhiệt như vậy.
27/10/2010(Xem: 7399)
Cuộc đời là những mâu thuẫn, ở đây tôi không nói những gì cao siêu mà nói về những kinh nghiệm sống của người Phật tử. Chúng ta sống như thế nào để cuộc đời được an lành tự tại, không bị đau khổ làm ray rứt.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]