Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

14. Nghề nghiệp chân chánh

22/02/201112:05(Xem: 6827)
14. Nghề nghiệp chân chánh

GIỌT MỒ HÔI THANH THẢN
Nguyên Minh

Nghề nghiệp chân chánh

Một trong những quyết định quan trọng đầu tiên của cuộc đời chúng ta có lẽ là quyết định chọn lựa nghề nghiệp. Một số trong chúng ta có đủ may mắn để quyết định chọn lựa nghề nghiệp ngay từ khi còn ngồi ghế nhà trường, và được tiếp tục theo đuổi con đường mình đã chọn. Một số khác kém may mắn hơn, đôi khi phải thay đổi công việc nhiều lần hoặc phải làm những công việc mà mình không thực sự chọn lựa. Mặc dù vậy, quyết định chọn lựa nghề nghiệp của chúng ta bao giờ cũng có một ý nghĩa vô cùng quan trọng, vì cho dù thực tế có diễn ra như thế nào đi nữa thì nó vẫn luôn góp phần định hướng cho cả cuộc đời ta.

Chúng ta đã có dịp đề cập đến ý nghĩa và giá trị thực sự của công việc, qua đó thấy rằng không nên xem một nghề nghiệp là thấp hèn hoặc cao quý, bởi vì sự thấp hèn hay cao quý không phải là giá trị tự thân của nghề nghiệp mà chính là giá trị do mỗi người tạo ra qua công việc của mình.

Tuy vậy, chúng ta cũng không phủ nhận sự khác biệt nhất định của những nghề nghiệp khác nhau trong việc phụng sự con người. Có những nghề nghiệp cho phép ta trực tiếp giúp đỡ và tạo được ảnh hưởng tốt đến rất nhiều người, chẳng hạn như các thầy cô giáo, các y bác sĩ... Tất nhiên là những người làm các công việc này rất xứng đáng nhận được sự kính trọng và biết ơn của xã hội.

Nhưng sự thật là không phải ai cũng có thể chọn làm những nghề nghiệp như vậy. Và những người không theo đuổi được những nghề nghiệp như thế cũng không thể xem là không tốt. Đây chỉ là vấn đề năng lực khác nhau của mỗi người mà thôi. Có những người tốt nhưng không đủ năng lực để làm những nghề nghiệp tốt, ngược lại cũng có những người làm nghề nghiệp tốt nhưng chưa hẳn đã có nhân cách tốt. Bởi vậy, nghề nghiệp tốt và con người tốt có thể xem là hai vấn đề khác nhau.

Sự chọn lựa nghề nghiệp của chúng ta phải phụ thuộc vào năng lực bản thân, đó là điều tất nhiên. Bạn có thể rất ngưỡng mộ những người làm thầy thuốc và ao ước bản thân mình là một thầy thuốc. Nhưng nhiệt tình và lòng tốt của bạn chưa đủ để cho phép bạn trở thành thầy thuốc. Bạn cần phải có đủ khả năng thi đậu vào trường y, phải học tập tốt và chứng tỏ được năng lực của mình trong thời gian thực tập. Không có những điều kiện ấy, bạn không thể trở thành một thầy thuốc!

Vì thế, cho dù chúng ta phải chấp nhận những giới hạn của năng lực bản thân trong việc chọn lựa cho mình một nghề nghiệp, nhưng ngay trong phạm vi của những giới hạn đó chúng ta vẫn có khả năng chọn lựa cho mình một nghề nghiệp có thể mang lại lợi ích cho nhiều người khác.

Chọn lựa một nghề nghiệp sao cho vừa có thể nuôi sống bản thân và gia đình, lại vừa có thể góp phần giúp ích cho xã hội, mang lại lợi ích cho nhiều người khác, đó chính là khuynh hướng mà trong đạo Phật gọi là Chánh mạng.[7]

Khi chúng ta chọn lựa một nghề nghiệp chân chánh để nuôi sống bản thân và gia đình, chúng ta cũng đồng thời nuôi dưỡng được những giá trị tinh thần trong đời sống. Điều này rất quan trọng, bởi vì chúng ta không chỉ sống bằng những giá trị vật chất mà luôn cần đến những giá trị tinh thần để có một cuộc sống thực sự an vui, hạnh phúc.

Cho dù là mọi nghề nghiệp xét cho cùng đều có những đóng góp xây dựng cho xã hội – trừ ra những nghề bất chánh vốn không được xã hội thừa nhận – nhưng chúng ta vẫn luôn có khả năng chọn lựa trong sự cân đối giữa lợi nhuận và ý nghĩa phục vụ người khác. Khi công việc của bạn mang lại lợi nhuận rất cao nhưng ít có ý nghĩa phục vụ người khác, bạn sẽ không nhận được nhiều giá trị tinh thần hơn so với một công việc tuy mang lại lợi nhuận thấp hơn nhưng có ý nghĩa phục vụ lợi ích cho nhiều người hơn. Chúng ta sẽ lấy ví dụ từ sự chọn lựa trong cùng một công việc để làm rõ hơn ý nghĩa này.

Khi bạn mở một cửa hàng bán lẻ chẳng hạn, bạn có khả năng chọn lựa các mặt hàng để bày bán. Một số mặt hàng chất lượng kém có giá rất rẻ và hiện đang được tiêu thụ mạnh, có thể mang lại cho bạn nhiều lợi nhuận, nhưng bạn biết chắc là người tiêu dùng sẽ gặp nhiều rắc rối sau một thời gian sử dụng, và do đó bạn quyết định không bán những mặt hàng này. Một số mặt hàng khác có giá bán cao hơn, với chất lượng tốt hơn nhưng chưa được người tiêu dùng biết đến, vì thế doanh số bán ra còn rất giới hạn. Mặc dù khi chọn bán các mặt hàng này bạn biết chắc là sẽ không thu được nhiều lợi nhuận, nhưng bạn đã cân nhắc đến lợi ích của người mua hàng và thấy là nên bán những mặt hàng này.

Trong trường hợp trên, bạn có hai chọn lựa khác nhau, dẫn đến sự cân đối khác nhau giữa lợi nhuận thu được và ý nghĩa phục vụ người khác. Trong hầu hết các trường hợp khác, bạn cũng sẽ có được khả năng chọn lựa tương tự như thế.

Khi chúng ta luôn nghĩ đến lợi ích của người khác trong khi thực hiện công việc của mình, nghề nghiệp của chúng ta sẽ được xem là chân chánh, và luôn có khuynh hướng nâng cao thêm các giá trị tinh thần vốn có của bản thân ta. Ngược lại, khi chúng ta luôn có khuynh hướng chạy theo lợi nhuận và bất chấp lợi ích của người khác, chúng ta sẽ hạ thấp giá trị của công việc đang làm, và cũng đồng thời đánh mất đi những giá trị tinh thần vốn có của bản thân.

Có thể diễn đạt điều này một cách hình tượng hơn là giống như khi chúng ta chọn lựa giữa việc chuẩn bị cho một bữa ăn và giấc ngủ. Khi bạn chọn ăn nhiều hơn, bạn sẽ khó lòng có được một giấc ngủ ngon. Ngược lại, bạn có thể ăn ít hơn đôi chút nhưng lại có được một giấc ngủ rất ngon. Đó là khi bạn biết chắc rằng công việc mình đang làm sẽ mang lại lợi ích cho rất nhiều người khác.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
15/05/2021(Xem: 4929)
Không nói được tiếng Tây Tạng và chưa bao giờ dịch tác phẩm nào nhưng Evans-Wentz được biết đến như một dịch giả xuất sắc các văn bản tiếng Tây Tạng quan trọng, đặc biệt là cuốn Tử Thư Tây Tạng ấn bản năm 1927. Đây là cuốn sách đầu tiên về Phật giáo Tây Tạng mà người Tây Phương đặc biệt quan tâm. Ông Roger Corless, giáo sư Tôn Giáo Học tại đại học Duke cho biết: “Ông Evans-Wentz không tự cho mình là dịch giả của tác phẩm này nhưng ông đã vô tình tiết lộ đôi điều chính ông là dịch giả.”
15/05/2021(Xem: 5050)
Ngay sau tác phẩm Mối tơ vương của Huyền Trân Công Chúa, người đọc lại được đón đọc Vua Là Phật - Phật Là Vua của nhà văn Thích Như Điển. Đây là cuốn sách thứ hai về đề tài lịch sử ở thời (kỳ) đầu nhà Trần mà tôi đã được đọc. Có thể nói, đây là giai đoạn xây dựng đất nước, và chống giặc ngoại xâm oanh liệt nhất của lịch sử dân tộc. Cũng như Mối tơ vương của Huyền Trân Công Chúa, tác phẩm Vua Là Phật - Phật Là Vua, nhà văn Thích Như Điển vẫn cho đây là cuốn tiểu thuyết phóng tác lịch sử. Nhưng với tôi, không hẳn như vậy. Bởi, tuy có một số chi tiết, hình ảnh tưởng tượng, song dường như rất ít ngôn ngữ, tính đối thoại của tiểu thuyết, làm cho lời văn chậm. Do đó, tôi nghiêng về phần nghiên cứu, biên khảo, cùng sự liên tưởng một cách khoa học để soi rọi những vấn đề lịch sử bấy lâu còn chìm trong bóng tối của nhà văn thì đúng hơn. Ở đây ngoài thủ pháp trong nghệ thuật văn chương, rõ ràng ta còn thấy giá trị lịch sử và hiện thực thông qua sự nhận định, phân tích rất công phu của
15/05/2021(Xem: 4422)
Ấm ma là hiện tượng hóa ngôn ngữ. Trong kinh Lăng Nghiêm nói đến 50 ấm ma là nói đến biến tướng của nghiệp thức, của các kiết sử thông qua lục căn từng giao tiếp với lục trần trên nền tảng “ sắc-thọ-tưởng-hành-thức”.
15/05/2021(Xem: 4084)
Đọc xong tác phẩm nầy trong một tuần lễ với 362 trang khổ A5, do Ananda Viet Foundation xuất bản năm 2017, Bodhi Media tái xuất bản tại Hoa Kỳ trong năm 2020 và tôi bắt đầu viết về Tác phẩm và Tác giả để gửi đến quý độc giả khắp nơi, nếu ai chưa có duyên đọc đến. Nhận xét chung của tôi là quá hay, quá tuyệt vời ở nhiều phương diện. Phần giới thiệu của Đạo hữu Nguyên Giác gần như là điểm sách về nhiều bài và nhiều chương quan trọng trong sách rồi, nên tôi không lặp lại nữa. Phần lời bạt của Đạo hữu Trần Kiêm Đoàn cũng đã viết rất rõ về sự hình thành của Gia Đình Phật Tử Việt Nam ở trong nước, từ khi thành lập cho đến năm 1975 và Ông Đoàn cũng đã tán dương tuổi trẻ Việt Nam cũng như tinh thần học Phật, tu Phật và vận dụng Phậ
10/05/2021(Xem: 4679)
Chỉ có bốn chữ mà hàm chứa một triết lý thâm sâu ! Chỉ có bốn chữ mà sao chúng sanh vẫn không thực hành được để thoát khỏi sự khổ đau ? Nhưng cũng chỉ bốn chữ này có thể giúp chúng sinh phá được bức màn vô minh, đến được bến bờ giác ngộ, thoát vòng sinh tử !
08/05/2021(Xem: 4142)
Chủ đề bài này là nói về tỉnh thức với tâm không biết. Như thế, nghĩa là những gì rất mực mênh mông, vì cái biết luôn luôn là có hạn, và cái không biết luôn luôn là cái gì của vô cùng tận. Cũng là một cách chúng ta tới với thế giới này như một hài nhi, rất mực ngây thơ với mọi thứ trên đời. Và vì, bài này được viết trong một tỉnh thức với tâm không biết, tác giả không đại diện cho bất kỳ một thẩm quyền nào. Độc giả được mời gọi tự nhìn về thế giới trong và ngoài với một tâm không biết, nơi dứt bặt tất cả những tư lường của vô lượng những ngày hôm qua, nơi vắng lặng tất cả những mưu tính cho vô lượng những ngày mai, và là nơi chảy xiết không gì để nắm giữ của vô lượng khoảnh khắc hôm nay. Khi tỉnh thức với tâm không biết, cả ba thời quá, hiện, vị lai sẽ được hiển lộ ra rỗng rang tịch lặng như thế. Đó cũng là chỗ bà già bán bánh dẫn Kinh Kim Cang ra hỏi ngài Đức Sơn về tâm của ba thời.
04/05/2021(Xem: 3577)
Một khi Đức Đạt Lai Lạt Ma rời Tây Tạng, ngài sẽ phải đối diện với nhiệm vụ khó khăn về việc nói với thế giới những gì đã xảy ra ở quê hương ngài và cố gắng để có được sự giúp đở cho người dân của ngài. Ngài cũng phải chạm trán với sự tuyên truyền của truyền thông Tàu Cộng rằng ngài đã bị bắt cóc. Tuy nhiên, nhu cầu thiết yếu nhất là để bảo đảm nhà ở và thực phẩm cho những người Tây Tạng đã đi theo ngài lưu vong. Ngài đã hướng đến chính phủ Ấn Độ, và họ đã không làm ngài thất vọng. Trong thực tế, Ấn Độ cuối cùng đã tiếp nhận hơn một trăm nghìn người tị nạn, cung cấp chỗ ở, và nuôi dưỡng họ, cho họ làm việc, và thiết lập những ngôi trường đặc biệt cho trẻ em Tây Tạng. Những tu viện Phật giáo Tây Tạng cũng được xây dựng ở Ấn Độ và Nepal.
30/04/2021(Xem: 6859)
Thưa Tôi. Hôm nay là ngày sinh nhật của Tôi, xin được phép thoát ra khỏi cái tôi để nhìn về tôi mà phán xét và đưa ra cảm nghĩ. Hình dạng tôi đã già rồi, tóc đã bạc hết cả đầu. Tôi đã trải qua một thời gian dài sinh sống làm việc và cuối đời nghỉ hưu. Tôi đã bắt đầu thấm thía cái vô thường của thời gian mang lại. Tôi cũng đã thấm thía cái sức khỏe đã đi xuống nhanh hơn đi lên. Tôi cũng đã thấm thía tình đời bạc bẽo cũng như tình cảm (Thọ) là nỗi khổ đau của nhân sinh. Tôi cũng đã hiểu rõ thế nào là ý nghĩa đích thực của cuộc sống, đó là bất khả tương nghị không thể thốt lên thành lời. Chỉ có im lặng là đúng nghĩa nhất. Ngày xưa khi lục tổ Huệ Năng của Thiền tông chạy trốn mang theo y bát thì thượng tọa Minh rượt đuổi theo để giết lấy lại. Đến khi gặp mặt thì lục tổ mang y bát ra để trên tảng đá rồi núp dưới tảng đá bảo thượng tọa Minh hãy lấy y bát đi mà tha chết cho người. Thượng tọa Mình lấy bát lên, nhắc không lên nổi vì nó quá nặng bèn sợ hãi mà quỳ xuống xin lục tổ tha c
30/04/2021(Xem: 6930)
Thiền Uyển Tập Anh chép Đại sư Khuông Việt Ngô Chân Lưu (933 – 1011) tu ở chùa Phật Đà, Thường Lạc nay là chùa Đại Bi núi Vệ Linh Sóc Sơn, Hà Nội. Ngài thuộc thế hệ thứ 4 Thiền phái Vô Ngôn Thông. Ngài người hương Cát Lợi huyện Thường Lạc, nay thuộc huyện Sóc Sơn, Hà Nội, thuộc dòng dõi Ngô Thuận Đế (Ngô Quyền). Theo Phả hệ họ Ngô Việt Nam, Thiền sư Ngô Chân Lưu tên huý là Xương Tỷ, anh trai Thái tử - Sứ quân Ngô Xương Xý, con Thiên Sách Vương Ngô Xương Ngập, cháu đích tôn của Ngô Vương Quyền. Ngài dáng mạo khôi ngô tuấn tú, tánh tình phóng khoáng chí khí cao xa, có duyên với cửa Thiền từ năm 11 tuổi.
27/04/2021(Xem: 5031)
Tánh Không ra đời một thời gian dài sau khi đức Phật Nhập diệt do Bồ tát Long Thọ xiển dương qua Trung Quán Luận. Mặc dầu khi còn tại thế đức Phật có nói về Tánh Không qua kinh A hàm và Nikaya. Nơi đây Phật có nói về tánh xuất gia của hành giả đi tu. Hạng người tâm xuất gia mà thân không xuất gia thì gọi là cư sĩ. Và hạng người tâm và thân xuất gia thì gọi là tỳ kheo. Tánh Không cũng có hiện hữu trong kinh Tiểu không bộ kinh trung bộ. Phật có dạy: nầy Ananda, Ta nhờ ẩn trú Không nên nay ẩn trú rất nhiều. Kế tiếp Phật có dạy trong kinh A hàm về các pháp giả hợp vô thường như những bọt nước trôi trên sông: sự trống không của bọt nước.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]