Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Sự Hối Lỗi Và Mặc Cảm

19/02/201114:57(Xem: 8473)
Sự Hối Lỗi Và Mặc Cảm

HẠNH PHÚC KHẮP QUANH TA
Nguyên Minh

HẠNH PHÚC VÀ KHỔ ĐAU

SỰ HỐI LỖI VÀ MẶC CẢM

Không có ai trong chúng ta là hoàn thiện theo nghĩa tuyệt đối. Hầu hết chúng ta đều đã từng mắc phải những lỗi lầm nào đó. Có thể chỉ là những lỗi lầm vụn vặt không đáng kể, nhưng cũng có thể là những sai lầm nghiêm trọng gây tác hại nặng nề. Nói chung, bởi vì chúng ta đều là những con người, nên điều tất yếu là mỗi chúng ta đều đã từng sai trái.

Hối tiếc về những gì mình đã làm sai, hoặc những gì mà lẽ ra nên làm nhưng đã không làm, là những suy nghĩ tích cực có ý nghĩa giúp chúng ta hoàn thiện bản thân, tránh được những sai lầm trước đây và ngày càng vươn lên một cuộc sống tốt đẹp hơn. Tuy nhiên, nếu chúng ta luôn ray rứt, tự trách về những sai lầm trong quá khứ của mình, cảm giác này sẽ không còn mang ý nghĩa tích cực nữa mà trở thành một hình phạt nặng nề cho tự thân, làm cho tâm hồn ta không lúc nào được thanh thản, và vì thế mà nó cướp đi mọi nguồn vui sống, nhấn chìm chúng ta vào những khổ đau triền miên. Chúng ta thường gọi trạng thái này là mặc cảm tội lỗi.

Khi chúng ta biết hối lỗi, ta thừa nhận những gì sai trái mình đã làm với một ý hướng tích cực là sẽ không làm như thế nữa trong tương lai. Tương tự, nếu ta hối tiếc vì đã không làm một điều tốt đẹp nào đó, ta cũng tự hứa với mình là nếu gặp một tình huống tương tự trong tương lai, ta nhất định sẽ làm.

Trong cả hai trường hợp, những ý hướng này làm nảy sinh động lực thúc đẩy cho hành vi của chúng ta. Vì thế, nó giúp ta năng động hơn, nỗ lực nhiều hơn để có thể thực hiện được những ý hướng của mình.

Ngược lại, khi chúng ta mang mặc cảm tội lỗi, chúng ta tự giày vò bản thân, rơi vào tâm trạng chán chường và cảm thấy bất lực vì không thể làm gì được để thay đổi một kết quả trong quá khứ. Trong trường hợp này, ta không muốn làm bất cứ điều gì khác ngoài việc tự trách mình. Vì thế, ta không có động lực nào thúc đẩy những hành vi sắp tới, và vì thế ta trở nên thụ động, yếu đuối hơn.

Sự khiếm khuyết hoặc sai lầm của mỗi chúng ta là điều khó tránh. Nhưng đó không phải là lý do để chúng ta từ chối vươn lên sự hoàn thiện. Trong thực tế, ý nghĩa cuộc sống chính là nằm ở chỗ vươn lên sự hoàn thiện. Khi chúng ta đánh mất ý hướng này, cuộc sống sẽ trở nên vô vị và không còn động lực để sống đúng nghĩa.

Vì thế, sự hối lỗi là một yếu tố tất yếu phải có nơi mỗi người. Không biết hối lỗi, chúng ta không có động lực để vươn lên sự hoàn thiện. Không biết hối lỗi, chúng ta không rút tỉa được những kinh nghiệm quý báu từ những sai lầm đã qua. Sự hối lỗi càng chân thành thì khả năng hoàn thiện trong tương lai cũng càng mạnh mẽ hơn.

Nhưng mặc cảm tội lỗi thì ngược lại. Nó làm chậm tiến trình vươn lên của ta, đẩy ta vào chỗ bế tắc và đánh mất sinh lực trong cuộc sống. Mặc cảm tội lỗi làm cho chúng ta không còn tự tin nơi mình, luôn nhìn mọi sự vật với một thái độ bi quan và thụ động. Mặc cảm tội lỗi càng lớn thì bạn càng có nhiều nguy cơ suy sụp cả tinh thần lẫn thể chất.

Vì thế, chúng ta cần có sự phân biệt và tránh đừng để những mặc cảm tội lỗi đeo đuổi lâu dài trong cuộc sống. Tuy nhiên, việc loại bỏ những mặc cảm tội lỗi nhiều khi cũng không phải là chuyện dễ dàng. Một nhận thức đúng như trên là tiền đề quyết định, nhưng đôi lúc chúng ta cũng còn cần đến những phương thức hỗ trợ nhất định, nhất là khi mặc cảm ấy sản sinh từ một sai lầm rất nghiêm trọng hoặc để lại những hậu quả lâu dài.

Khi chúng ta không thể tự mình dứt bỏ một mặc cảm tội lỗi, chúng ta cần thực hiện những biện pháp hỗ trợ tích cực để làm được việc này. Nếu chúng ta mang mặc cảm vì một sai lầm gây tác hại nặng nề đến ai đó, chúng ta cần trực tiếp nhận lỗi với người ấy để được tha thứ. Sự tha thứ của người bị hại sẽ là một động lực rất quan trọng có thể giúp ta dứt bỏ mặc cảm tội lỗi.

Nhưng không phải lúc nào ta cũng có thể làm được điều này. Trong những trường hợp mà người bị hại không may đã chết hoặc đi xa và ta không còn có dịp để tiếp xúc với người ấy, hoặc vì một lý do nào khác, ta có thể nhận lỗi với một người thứ ba, thường phải là một người có khả năng đưa ra sự tha thứ, chẳng hạn như một bậc trưởng thượng hoặc một người nâng đỡ tinh thần. Hình thức xưng tội của tín đồ Thiên chúa giáo chính là mang ý nghĩa này.

Tín đồ Phật giáo thường thực hiện nghi thức sám hối mỗi tháng hai lần, với ý nghĩa nhắc nhở ta phải biết hối lỗi và buông bỏ những mặc cảm tội lỗi. Tuy nhiên, một số Phật tử không được giảng giải đầy đủ về ý nghĩa này và khi đó việc sám hối sẽ giảm đi phần nào hiệu quả của nó. Khi tham dự một lễ sám hối, điều tất yếu là người sám hối phải biết tự soi rọi lòng mình, nhớ lại tất cả những điều sai trái đã làm và chân thành phát lộ sám hối. Sau khi sám hối, chỉ giữ lại trong lòng một ý hướng sửa chữa sai lầm, hoàn thiện bản thân, mà không còn mang nặng mặc cảm tội lỗi nữa. Đây là dựa vào đức tin và ý chí phục thiện để dứt bỏ mặc cảm tội lỗi, cũng là một phương pháp vô cùng hữu hiệu.

Chúng ta cũng có thể quán niệm ý nghĩa vô thường của mọi sự vật để dứt bỏ mặc cảm tội lỗi. Khi một sai lầm đã xảy ra, ta không thể làm gì khác ngoài việc chấp nhận những hậu quả của nó. Mặc cảm tội lỗi thường sinh ra trong ý nghĩa này, khi ta cảm thấy bất lực không thể thay đổi được gì, và những hậu quả của sai lầm sẽ mãi mãi còn đó. Tuy nhiên, cách nghĩ này không hoàn toàn đúng. Bởi vì bản chất của mọi sự vật là liên tục thay đổi và không thường tồn. Nói cách khác, mọi việc đều sẽ thay đổi theo thời gian. Vì thế, chúng ta sẽ hoàn toàn vô lý khi ôm ấp mãi trong lòng mặc cảm tội lỗi về một việc đã làm. Chúng ta không thể thay đổi được việc đã làm, nhưng chúng ta có thể làm rất nhiều việc khác trong ý nghĩa để khắc phục sai lầm đã mắc phải. Việc mang nặng trong lòng một mặc cảm và không làm gì cả là một thái độ hoàn toàn tiêu cực và không thể mang lại bất cứ ý nghĩa tích cực nào.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
26/05/2021(Xem: 4708)
Lời tựa Những lời Phật dạy phần lớn mang tính phương tiện. Nếu ta chấp chặt từng chữ, từng lời sẽ khó hiểu được hết ý nghĩa thâm sâu bên trong. Chúng ta - những người học Phật ngày nay - rất cần nhận biết đâu là phương tiện, đâu là chân lý trong những lời Phật dạy để không rơi vào cực đoan và thiên kiến. Ngoài ra, người học Phật cũng cần chú tâm vào thực hành để tự mình thực chứng, để tự tìm ra cách đi phù hợp cho riêng mình.
26/05/2021(Xem: 5013)
Phật Đà sau khi thành Chánh Đẳng Chánh Giác nơi cội Bồ Đề, trong thời gian hai mươi mốt ngày, chỉ riêng mình thọ dụng diệu lạc giải thoát, tự riêng cảm niệm lý pháp tịch tịnh vi diệu thậm thâm khó thấy, không phải cảnh giới của tìm cầu, chỉ có bậc trí mới chứng ngộ được; chúng sanh thì bị nhiễm trước thâm sâu ngã kiến, ái lạc phiền não nặng nề, mặc dù họ được nghe Phật Pháp, e rằng cũng không thể rõ thấu, chỉ uổng công vô ích, chi bằng im lặng tịnh trụ tốt hơn. Sau đó Đại Phạm Thiên Vương ân cần cầu thỉnh Phật thuyết pháp, Thế Tôn mới đến Lộc Dã Uyển ngoài thành Ba La Nại Tư, vì năm ông thị giả lúc trước bỏ Phật mà vào trong đây tu khổ hạnh gồm có: A Nhã Kiều Trần Như, Át Bệ, Bạt Đề, Thập Lực Ca Diếp, Ma Nam Câu Lợi, giảng pháp môn Tứ Đế: Khổ, Tập, Diệt, Đạo. Năm vị sau khi nghe pháp thấu hiểu ý nghĩa các lậu đều dứt, chứng thành bậc A La Hán, đây là Tam Bảo đầu tiên mới thiết lập trong thế gian: Đại Thánh Phật Đà là Phật Bảo, Pháp Luân Tứ Đế là Pháp Bảo, Năm A La Hán là Tăng Bảo.
24/05/2021(Xem: 4510)
Đại thừa lấy việc chăn trâu dụ cho việc điều tâm, luyện tâm. Cái tâm đó, nguyên lai thuần hậu, nhưng đã bị đánh lạc mất, để nó chạy rông, buông lung theo sở thích không biết gì đến những hiểm nguy rình rập, cho nên phải tìm lại, và chế ngự cho thuần tính. Cái tâm vọng động xấu xa lần hồi được gạn lọc khỏi các cấu nhiễm trần gian sẽ sáng dần lên và từ chỗ vô minh sẽ đạt tới cảnh giới vòng tròn viên giác. Đó là tượng trưng cho phép tu “tiệm”. Theo phép tu tiệm thì phải tốn rất nhiều công phu mới tiến đến được từng nấc thang giác ngộ. Nhờ công phu, cái vọng tâm lần hồi gạn lọc được trần cấu mà sáng lần lên, cũng như nhờ được chăn dắt mà con trâu hoang đàng lâu ngày trở nên thuần thục dần dần và lớp da đen dơ dáy trắng lần ra.
24/05/2021(Xem: 3741)
Cơn đại dịch quét qua địa cầu gây điêu đứng và làm xáo trộn cả đời sống của nhân loại. Nó tước đi những sinh mệnh, làm đảo lộn nếp sống của từng cá nhân, gia đình, xã hội, quốc gia và quốc tế. Nó không phân biệt, nể trọng hay nhường nhịn ai; không kỳ thị trí thức hay bình dân, giàu hay nghèo, già hay trẻ, nam hay nữ, khỏe mạnh hay yếu đuối. Nó ly cách từng cá nhân, chia lìa những gia đình, khoanh vùng từng xã hội; và như lưỡi hái khổng lồ của tử thần, nó phạt ngang, san bằng tất cả những gì nằm trên lối đi thần tốc của nó.
24/05/2021(Xem: 7553)
Ca khúc phổ nhạc “Đóa Hoa Dâng Đời... Của Ns Phật Giáo Hằng Vang từ bài thơ có tựa là “ Đóa Hoa Ngàn Đời... Của Huyền Lan đăng tuần báo Giác Ngộ đặc biệt Phật Đản số 110 ra ngày 09/05/1998. Sau đó vào năm 2003. Cư Sỹ Tống Hồ Cầm – Phó Tổng Biên Tập Báo Giác Ngộ - tức nhà thơ Tống Anh Nghị - Chủ Nhiệm CLB thơ ca Báo Giác Ngộ, hợp tuyển thơ báo Giác Ngộ nhiều tác giả có tên gọi “Sắc Hương Hoa Bút... Được tuyển chọn vào tập thơ nhiều tác giả nầy...
24/05/2021(Xem: 4743)
Ni sư Thích Nữ Giới Hương có lẽ là vị trụ trì viết nhiều nhất ở hải ngoại. Đó là theo chỗ tôi biết, trong cương vị một nhà báo nhiều thập niên có liên hệ tới nhà chùa và công việc xuất bản. Viết là một nỗ lực gian nan, vì phải đọc nhiều, suy nghĩ nhiều, phân tích nhiều, cân nhắc kỹ rồi mới đưa chữ lên mặt giấy được. Đặc biệt, Ni sư Giới Hương cũng là vị trụ trì viết bằng tiếng Anh nhiều nhất. Tôi vẫn thường thắc mắc, làm thế nào Ni sư có đủ thời giờ để gánh vác Phật sự được đa dạng như thế. Nghĩ như thế, vì tự thấy bản thân mình, nghiệm ra, không có đủ sức đọc và viết nhiều như Ni sư.
18/05/2021(Xem: 6171)
Phật sử ghi lại rằng, vào canh Ba đêm thành đạo, đức Phật đã tìm ra câu giải đáp làm sao thoát khỏi cảnh “Sinh, Già, Bệnh, Chết”, tức thoát khỏi vòng “luân hồi sinh tử”. Câu trả lời là phải đoạn diệt tất cả “lậu hoặc”. Lậu hoặc chính là những dính mắc phiền não, xấu xa, ác độc, tham, sân, si… khiến tâm con người bị ô nhiễm từ đời này sang đời khác, và đời này con người ta vẫn tiếp tục huân tập lậu hoặc, tạo thành nghiệp. “Lậu hoặc” hay “nghiệp” là nguyên tố nhận chìm con người trong luân hồi sanh tử, là nguyên nhân của khổ đau. Muốn chấm dứt khổ đau, chấm dứt luân hồi sanh tử thì phải đoạn diệt tất cả các lậu hoặc, không có con đường nào khác!
18/05/2021(Xem: 5322)
Năm 1959 một sự đe dọa của Tàu Cộng chống lại Đức Đạt Lai Lạt Ma đưa đến sự phản kháng ở Lhasa. Hy vọng tránh được một cuộc tắm máu, ngài đã đi lưu vong và hơn 150,000 Tây Tạng đã đi theo ngài. Bất hạnh thay, hành động này đã không ngăn được sự tắm máu. Một số báo cáo nói rằng khoảng một triệu người Tây Tạng đã chết trong năm đó như một kết quả trực tiếp của việc Tàu Cộng xâm chiếm Tây Tạng.
16/05/2021(Xem: 12128)
Nhận xét rằng, Chúng ta đang đứng trước một khúc quanh gấp của lịch sử nhân loại. Đại dịch Covid-19 đã khép kín mỗi cá nhân trong một không gian chật hẹp, cách ly xã hội, cô lập cá nhân, cách ly cả những người thân yêu. Nó đã tạo ra những khủng hoảng tâm lý trầm trọng trong nhiều thành phần xã hội. Một số đông bị quẫn bức, không thể tự kềm chế, bỗng chốc trở thành con người bạo lực, gieo kinh hoàng cho xã hội. Một số khác, có lẽ là số ít, mà phần lớn trong đó là thanh thiếu niên, khởi đầu cũng chất đầy oán hận trong lòng, nhưng rồi trước ngưỡng sinh tử sự đại, tự mình phấn đấu tự kềm chế, cuối cùng đã khám phá chính mình, trong trình độ nào đó, với những giá trị nhân sinh chỉ có thể tìm thấy trong những cơn tư duy thầm lặng. Giá trị nhân sinh không thể tìm thấy bằng những cao trào kích động của tuổi trẻ. Thế hệ ấy sẽ làm thay đổi hướng đi của lịch sử Đông Tây qua hai nghìn năm kỷ nguyên văn minh Cơ-đốc, khi mà tín đồ có thể liên hệ trực tiếp với đấng Chí Tôn của mình qua mạng truyền
15/05/2021(Xem: 5350)
Phần này bàn về niên hiệu Long Thái và chúa Khánh ở Cao Bằng vào thời LM de Rhodes đến truyền đạo. Đây là lần đầu tiên các danh từ như vậy được dùng trong tiếng Việt qua dạng con chữ La Tinh (chữ quốc ngữ). Các tài liệu tham khảo chính của bài viết này là cuốn "Chúa Thao cổ truyện" và bốn tác phẩm của LM de Rhodes soạn: (a) cuốn Phép Giảng Tám Ngày (viết tắt là PGTN), (b) Bản Báo Cáo vắn tắt về tiếng An Nam hay Đông Kinh (viết tắt là BBC), (c) Lịch Sử Vương Quốc Đàng Ngoài 1627-1646 và (d) tự điển Annam-Lusitan-Latinh (thường gọi là Việt-Bồ-La, viết tắt là VBL) có thể tra tự điển này trên mạng, như trang http://books.google.fr/books?id=uGhkAAAAMAAJ&printsec=frontcover#v=onepage&q&f=false.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]