Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

07. Mình là cái gì?

17/02/201114:54(Xem: 6015)
07. Mình là cái gì?

NGUỒN AN LẠC
Hòa thượngThích Thanh Từ
Thường Chiếu,PL 2545 - TL 2001

07

MÌNH LÀ CÁI GÌ?
Giảng tại Thiền viện Trúc Lâm - 1997.

Hôm nay, đạo tràng Thái Tuệ về Thiền viện TrúcLâm cúng dường mùa an cư, quí thầy có ít lời nhắc nhở cho đạo tràng để quí vịtinh tấn tu hành.

Là người Phật tử, quívị vừa lo sinh sống cho gia đình, vừa lo tu hành, đồng thời giúp đỡ huynh đệchung quanh cùng biết tu, đó là duyên tốt. Vì vậy tôi sẽ nhắc nhở thêm cho quíPhật tử những điểm trọng yếu trong Phật pháp.

Ðức Phật Thích Ca khisinh ra đời, một tay chỉ trời một tay chỉ đất, nói câu: "Trên trời, dướitrời, chỉ có ta là hơn hết." Câu này quý thầy đã giảng rộng rồi, nhưng ởđây tôi nhấn mạnh lại trọng tâm. Người ta cứ nghĩ Phật nói thế là bản ngã hơnhết, nhưng sự thật không phải vậy. Với thâm ý của đạo Phật thì trên trời dướitrời chỉ có ta, tức con người là hơn hết.

Tại sao vậy? Vì trongvũ trụ, trời che đất chở nhưng trời đất vô tri, chỉ con người là có tri giác.Ðất chở đất nuôi chúng ta, nhưng đất có biết làm gì đâu, chỉ là hình tướng chechở giúp cho mình có sự sống. Còn trời là mây, mưa, mặt trời, mặt trăng, giúpcho ta đủ điều kiện sống trên thế gian này. Nên nói trời đất vô tri, chỉ có conngười tri giác, như vậy tri giác là trên tất cả. Vì thế con người là trọng tâmcủa trời đất, chớ không phải thường.

Lâu nay chúng ta aicũng như ai, hầu hết đều coi thường mình, chỉ kính trời trọng đất. Ðó là lỗilầm rất to. Sợ trời phạt, mong trời thương, cầu thổ địa ủng hộ chonhiều... tất cả những việc đó chỉ là phần phụ bên ngoài không đáng kể.Chính yếu là con người. Con người rất quan trọng đối với đạo Phật, nên đức PhậtThích Ca ra đời đã tuyên bố mục tiêu trọng yếu đó. Ngài ra đời là vì đề cao giátrị của con người. Ðó là trọng tâm, khác với các nhà khoa học hay triết học,luôn nghiên cứu tìm tòi bên ngoài, chinh phục vũ trụ mà quên xoay lại conngười, chinh phục chính bản thân mình.

Quí Phật tử kiểmnghiệm lại trong đời sống của mình, xét xem chúng ta nhớ mình nhiều hay nhớ bênngoài nhiều. Sáng thức dậy thì sao? Sửa soạn đi chợ hoặc đi làm công tác, luônluôn nhớ những việc bên ngoài, chớ không nhớ mình. Lo điều này điều kia, muasắm đủ thứ. Ngoài chợ có những món hàng mới lạ, nếu trong túi có tiền liền đimua sắm. Chúng ta ưa thích những gì mới lạ bên ngoài, ít khi nghĩ đến con ngườimình. Quí vị có khi nào nghĩ mình là cái gì không? Chắc không! Cứ hài lòng vớicon người như vầy, sự sống như vầy là đủ rồi. Thêm nữa là sự ăn mặc, nhà cửa,xe cộ, lo bấy nhiêu đó mà quên nghĩ mình là cái gì.

Mình là gì không biếtmà cái gì cũng lo cho mình. Sắm máy thu thanh, hỏi sắm cho ai, sắm cho mình.Mua chiếc nệm để làm gì? Ðể cho mình nằm. Cái gì cũng mình hết. Nhưng thử hỏimình là gì thì không biết! Ðó là điểm chính yếu mà tất cả chúng ta quên, chúngta lơ là.

Ðạo Phật không chophép người Phật tử như vậy mà chúng ta phải biết mình cho rành rẽ, tường tận.Vật bên ngoài chỉ phụ thuộc, nghĩa là biết được bao nhiêu hay bấy nhiêu, trọngyếu là phải biết mình, vì con người là trọng tâm của vũ trụ. Biết tất cả màkhông biết mình thì cái biết đó chưa thật biết. Tất cả tài sản mình được mà hỏimình là cái gì cũng không biết. Như vậy, tất cả cái được đó đều không giảiquyết tận cội gốc của con người. Sống mà không biết mình là gì thì cuộc sốnghết sức rỗng, vô giá trị. Nếu chúng ta chỉ lo ăn mặc cho sung sướng, nhà lầu xehơi, tức là chỉ lo thụ hưởng sung túc, mà mình là gì không biết thì ai hưởngthụ đây?

Ðó là vấn đề mà đứcPhật hay người tu hy sinh cả cuộc đời, phăng tìm cho ra manh mối để giải quyếtvề thân phận con người. Ngày nay chúng ta tu theo đạo Phật cần phải hiểu vấn đềđó, không thể xem thường. Cứ lo ăn lo mặc, lo sống để chờ tới ngày chết, cuốicùng là tan rã. Ví như chúng ta cất cái nhà thật đẹp nhưng biết mai mốt nó sẽtan nát thì còn quí nó không? Cái không bền, không lâu dài, chúng ta đâu cóquí. Vậy thì thân này không lâu dài, tại sao mình lại quí, đó là mê hay giác?Ðó là mê.

Vì vậy đạo Phật dạychúng ta phải giác, chớ không cho mê. Người mê thì không sáng suốt, không cótrí tuệ. Mà không sáng suốt, không trí tuệ thì sống như chết, không có giá trịgì hết! Ý nghĩa quan trọng là phải biết được mình thì cuộc sống mới có giá trị.Dù sống nghèo hay sống thiếu thốn vẫn có ý nghĩa như thường. Còn không biếtmình là gì thì cuộc sống hoàn toàn vô nghĩa.

Nhưng muốn biết mìnhlà gì phải làm sao? Chính điểm này tôi muốn hướng dẫn cho quí Phật tử ứng dụngtu tập để tìm lại xem mình là cái gì? Bao nhiêu người dù trí thức hay bình dânđều nghĩ mình luôn luôn hiện tiền, nhưng hỏi mình là gì thì không trả lời được.Như vậy, cái hiện tiền đó cũng chỉ là ảo tưởng thôi. Chúng ta phải tìm ra lẽthật mình là gì chớ không thể tưởng tượng được. Chúng ta tu không phải tìm cáigì xa xôi ở bên ngoài mà phải xoay lại soi sáng chính mình để tìm xem mình làgì? Cái gì là thật mình? Nếu tìm ra được cái thật mình là ngộ đạo. Ðừng tưởngngộ đạo là chạy lên non, lên núi, lên mây, lên trời, mà ngộ đạo là tìm ra đượccái thật mình. Tìm được cái thật mình rồi thì ngang đó giải quyết xong dòngsinh tử. Không tìm ra được cái thật mình thì luôn luôn sống trong dao động,biến chuyển. Mà dao động biến chuyển là tướng sinh diệt vô thường. Nếu chấp giữtất cả hình tướng tâm niệm vô thường là mình thì mình là một dòng biến chuyển.Chuyển biến nơi này tới nơi kia không dừng, Phật gọi đó là luân hồi. Ðã luânhồi thì chỉ có giải thoát luân hồi mới là vui.

Tôi thường nói thânnày không phải thiệt mình. Nhưng ai cũng bám vào nó, cũng nghĩ nó là mình. Nếuthân này thật mình thì nó nguyên vẹn, nhưng nếu ở trong da thịt chúng ta chỗnào bị ung nhọt thì có mủ hôi hám. Mủ hôi hám đó là mình chăng? Ðã từ da thịtmình loại ra thì nó đâu phải mình. Nếu là mình thì chúng ta phải mến nó chứ,ngược lại mình rất gớm nó. Như nước bọt ở trong miệng có phải là mình không?Nếu là mình thì khi nhổ ra rồi, mình lấy lại được; nhưng chúng ta có làm nhưvậy không? Kể cả máu huyết là thiết yếu của sự sống, nhưng chúng ta chích rachừng một chung máu, rồi bảo uống lại có dám uống không? Nếu thật mình thì đâunỡ bỏ; đằng này buông ra rồi, chúng ta gớm nó thì làm sao nói mình được. Nếuthân này là mình thì khi thiếu máu, mua máu của người khác đem vô, máu ngườikhác thì đâu phải của mình, nhưng khi đem vô rồi lại nói máu mình. Lạ chưa! Từbản thân mình loại ra thì chúng ta gớm, còn của người khác đem vào thì nhận làmình. Thật vô lý! Cho nên từ đó mới thấy rõ ràng thân này không thật là mình.

Trong kinh, đức Phậtkể lại: Có một người đi sang làng khác, giữa đường gặp sa mạc. Trời tối, ôngthấy cái chòi cũ không có người ở, nên vào nghỉ tạm qua đêm. Ðang nằm, có tiếngđộng bên ngoài, ông trỗi dậy nghe ngóng. Bỗng cánh cửa bị xô vô, thì ra một conquỷ to tướng đang vác cái thây người chết liệng xuống đất. Ông hoảng sợ quáđứng nép sau vách. Bỗng có con quỷ thứ hai chạy vào, dành ăn với con quỷ thứnhất. Ðứa này nói cái thây của tao, đứa kia nói cái thây của tao, hai đứa giànhnhau rồi cãi lộn.

Lúc đó chúng chợt thấyông đứng bên vách. Con quỷ thứ nhất nói từ đầu tới cuối có ông này làm chứng,nếu ông nói của đứa nào thì đứa đó ăn. Nghe vậy ông run quá, nếu nói của thằngnày thì thằng kia bẻ cổ mình, nhưng thôi kệ thà chết chớ không nói dối. Nên ôngbảo: "Khi nãy tôi thấy rõ ràng anh A đem cái thây vô quăng ở đây."Thằng kia tức giận quá liền giựt ông một cánh tay. Con quỷ thứ nhất thấy vậythương, bèn xé cánh tay của thây chết ráp vào cho ông. Vừa ráp xong thì con quỷthứ hai giựt cánh tay còn lại quăng ra. Con quỷ đầu xé cánh tay thứ hai củathây chết gắn vào. Rồi tới chân phải, chân trái. Hễ con quỷ này xé quăng ra thìcon kia lấy chân của thây chết gắn vào. Cuối cùng mệt quá hai con quỷ ngưngcãi, chúng chia hai chân, hai tay của ông bị vứt ra và ăn.

Ông ta hoảng hốt tựhỏi mình là cái gì? Rõ ràng tay chân hiện giờ là của thây chết. Ông mới đi tìmgặp những vị sáng suốt để hỏi xem ông bây giờ là gì. Gặp được một vị A La Hán,đảnh lễ xong, ông thưa:

- Bạch Ngài, con bịhai con quỷ đem tay chân của thây chết ráp vào cho con, bây giờ cái gì là con?

Vị A La Hán nói:

- Tốt lắm! Như vậy làông sắp ngộ đạo.

Câu chuyện tới đó hết.Quí vị thấy nếu vật tạm bợ hư giả mà chúng ta biết thắc mắc, tìm tòi, không tinnó thật, thì đó là sáng suốt, thấy được lẽ thật. Cuộc đời này có ai thấy đượclẽ thật không, có ai thắc mắc mình là gì không? Hay cứ hài lòng. Ðã hài lòngrồi thì tìm mọi thứ cho nó thụ hưởng, chờ đến ngày bại hoại. Ðó là nỗi đau đớncủa con người trong kiếp mê lầm. Chúng ta phải ý thức mình là gì, tìm cho racái mình đó chính là gốc của sự tu. Người biết quay lại tìm mình là người sắpthấy đạo.

Vì vậy tôi hướng dẫnTăng Ni ở các Thiền viện cũng như Phật tử trong các đạo tràng khi tụng kinh thìđặt nặng kinh Bát Nhã. Trong kinh Bát Nhã câu đầu: "Quán Tự Tại Bồ-táthành thâm Bát-nhã Ba-la-mật-đa thời chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhấtthiết khổ ách." Chỉ cần soi lại thân năm uẩn này không thật thì tất cả khổnạn qua hết. Quí vị có soi lại không? Nhiều khi đọc thì đọc mà không chịu soilại. Cần phải soi lại thân năm uẩn này xem nó có thật hay không. Nếu thấy rõràng nó không thật thì tất cả khổ ách đều qua. Ðiều này hết sức cụ thể.

Thường chúng ta thấythân này, vọng tưởng này là ta, nên những gì cung cấp cho thân này được khỏe,được sung túc mà người khác đoạt đi thì ta tức giận lên. Ta nghĩ việc gì đúngmà ai nói khác thì nổi giận. Như vậy khổ là do chấp thân, chấp tâm mà ra. Nếubiết thân này không thật, ý nghĩ không thật thì đâu còn chấp, đâu còn giận ai,nhờ thế mọi khổ ách đều qua hết. Người ta chửi, mình cười chơi thôi. Có gì thậtmà phải khổ, phải giận, dành hơn, dành thua. Anh không thật, tôi không thật,cái chửi cũng không thật luôn nên chỉ cười vui thôi.

Ngược lại, nếu thấythật thì động tới xác thịt liền đau tức, động tới ý kiến trái mình liền sângiận. Rõ ràng do chấp thân, chấp tâm mà mình khổ. Vì vậy kinh Bát Nhã nhắc chochúng ta soi thấy năm uẩn là không thì qua hết thảy khổ nạn. Việc tu hết sứcgiản đơn, không phải cầu Phật hay cầu ai làm cho mình hết khổ, chỉ cần thấy rõnăm uẩn không thật là hết khổ.

Năm uẩn có sắc, thuộcvề vật chất; thọ, tưởng, hành, thức thuộc về tâm; cả hai đều không thật. Biếtrõ như vậy thì khổ nạn nào cũng qua hết, chớ không phải Phật hay Bồ-tát, thầnthánh nào cho mình hết khổ nạn. Hết khổ nạn là do trí tuệ của chúng ta soi thấythân năm uẩn không thật. Kinh dạy một câu thôi chúng ta tu cả đời. Tu là phảisoi lại chớ không phải phóng ra. Nhưng hiện nay đa số người tu cầu xin nhiềuhơn soi lại.

Xét hai phần vật chấtvà tinh thần: Sắc là sắc chất tức thể xác không thật. Thọ, tưởng, hành, thứctức tinh thần cũng không thật. Thấy rõ như vậy là giác? Mê giác cách nhau chẳngbao xa. Thấy thân thật, cái suy gẫm thật là mê. Thấy thân không thật, cái suygẫm không thật là giác.

Trong kinh Viên Giáccó vị Bồ-tát thưa hỏi Phật:

- Bạch Thế Tôn, thếnào là vô minh?

Phật đáp:

- Chấp thân tứ đạiduyên hợp là thật của mình, chấp tâm suy nghĩ lăng xăng là tâm thật của mình làvô minh.

Hết vô minh là giác.Như vậy mê giác như trở bàn tay thôi, gần một bên mà mình tu hoài không được,tại sao? Tại vì mê chấp thấm sâu lâu đời quá rồi. Ngày nay đọc kinh Phật, nghequý thầy giảng chỉ mới lóe lên chút thôi, chưa hẳn là thấy nó không thật. Chỉkhi nào ngồi lại thấy thân không thật, tâm không thật, tất cả đều do duyên hợptạm bợ, thấy rõ như vậy thì mọi khổ nạn qua hết.

Ðược vậy sống ở đâycũng giống như Cực Lạc, có gì buồn, có gì khổ. Chúng ta cũng ăn, cũnguống như mọi người, nhưng không chê khen buồn giận, không mê lầm chấp thân tâmlà được. Muốn thế thì phải soi lại mình, không thể phóng ra ngoài nữa. Quí Phậttử cứ phóng ra, không biết quay lại, nên đi chùa hai chục năm vẫn không hếtphiền não.

Bây giờ trở lại vấn đềtu tập, chúng ta ngồi thiền để làm gì? Ðể nhìn lại mình. Bởi vì chúng ta hướngra thì mắt thấy sắc, tai nghe âm thanh, mũi ngửi mùi hương, lưỡi nếm vị, gióthổi xúc chạm... tiếp xúc các trần. Lúc đó dù chúng ta có tu vẫn bị ảnh hưởngbên ngoài nhiều. Chỉ khi ngồi yên, mắt nhìn xuống, gác hết năm trần bên ngoài,không cho nó lôi cuốn nữa. Nên giờ ngồi thiền là giờ ngồi để soi lại. Soi thếnào?

Phương tiện ban đầu,chúng ta dùng hơi thở hít vô thở ra đếm một, hít vô thở ra đếm hai, ... nhưchơi vậy. Nhưng nhờ nhớ hơi thở ra hơi thở vô, hơi thở thì ở trong nên chúng tamới phản quan. Thấy hơi thở vô, hơi thở ra đều đặn như vậy, nếu thở ra mà khônghít vô thì chết. Rõ ràng thân tạm bợ phải không? Vừa khởi nghĩ việc gì liềnbuông, mình tự nhắc vọng tưởng hư dối không thật. Thân này do tứ đại hợp thành.Hơi thở là gốc, thở ra không hít vào là chết nên sự sống rất mỏng manh. Ðã mỏngmanh lại cộng thêm cái tâm chợt có, chợt không là vọng tưởng hư dối. Tập soisáng lại mình như vậy, gọi là tỉnh giác.

Ngài Ðạo Nguyên ở NhậtBản nói: "Một giờ ngồi thiền là một giờ làm Phật." Tại sao? Giờ ngồithiền là giờ giác, còn giờ ở ngoài là giờ mê. Trong một ngày, quí Phật tử có đủthứ chuyện. Thấy chuyện này, nghe chuyện kia toàn là phóng ra ngoài, chớ khôngquay lại. Còn giờ ngồi thiền là giờ quay lại mình. Theo hơi thở, thấy vọngtưởng, buông; đó là nhìn lại mình, tỉnh giác rõ ràng, không bị mê lầm. Lúc tỉnhgiác đó không phải là Phật là gì? Phật là giác. Chúng ta đang giác nên chúng talà Phật.

Sở dĩ ngồi thiền ngủgục bị đánh là sao? Bởi vì trọng tâm là phải giác. Chúng ta ngồi ngủ mê nênđánh cho tỉnh, không để mê nữa. Hiểu vậy mới biết tại sao nhà thiền khắt khe.Vì sợ mình mê theo cảnh, hoặc si mê không biết gì nên phải làm cho mình tỉnh,tỉnh đó là giác. Ðược vậy một giờ ngồi thiền là một giờ làm Phật, chớ ngồi ngủkhò khò thì làm Phật sao được.

Chúng ta phải hiểu rõý nghĩa quán hơi thở. Nhiều khi chúng ta thực tập mà không hiểu nên nắm khôngvững, tu như vậy sẽ không đi tới đâu. Hơi thở vô ra xem như chuyện tầm thường,nhưng nhờ nhớ hơi thở mà chúng ta quay lại. Nếu không nhớ hơi thở thì tâm mìnhchạy rong. Tu là phải quay lại soi sáng chính mình. Nhờ theo dõi hơi thở vô ra,lúc thở khì mà không hít lại là chết. Chỉ có mấy giây đồng hồ thôi, mới biếtnhư vậy sự sống không bền, không thật. Bao nhiêu đó đủ để chúng ta chứng nghiệmđược cuộc sống này.

Ðến vọng tưởng, niệmnày nhảy ra niệm kia nhảy vô, chúng ta buông, nó mất; để thấy tâm này cũngkhông thật. Thấy thân không thật, thấy tâm cũng không thật, không phải tỉnhgiác là gì? Nên giờ ngồi thiền là giờ tỉnh giác, giờ ngồi thiền là giờ tối quantrọng, chứ không phải tầm thường. Khi tỉnh giác được rồi, chúng ta mới thấy rõđược mình. Thấy thân này không thật, tâm này không thật thì mọi cố chấp theo đórã tan. Chấp đã không còn thì khổ đau theo đó hết. Ðây mới chỉ là chặng số mộtthôi.

Tôi xin hỏi những vịtu hơi lâu một chút, khi ngồi thiền chừng năm ba phút, trong tâm không nghĩ nhớgì hết, lúc đó chúng ta có biết không? Dạ có biết. Như vậy, có mình hay khôngcó mình? Có mình.

Nếu cái nghĩ là mìnhthì khi không nghĩ là không có mình. Không nghĩ mà có mình thì cái nghĩ khôngphải là mình rồi. Bấy nhiêu đó đủ chứng minh cái suy nghĩ không phải là mình,vì nó chợt có chợt không. Những thứ lăng xăng lặng hết thì tri giác hằng hữu.Ðó là mình rồi, thực tế đâu có xa. Như vậy, cái mình chân thật đó không phải làcái suy nghĩ. Nghĩ suy là sinh diệt tạm bợ, không phải chân thật. Còn khôngnghĩ mà hằng biết, có tiếng động liền nghe, hình ảnh đến liền thấy, gió chạmthì mát v.v... yên tĩnh sáng suốt không nghĩ ngợi gì hết, đó chính thật làmình.

Thường những gì độnglà vô thường sinh diệt. Thân động cho nên thân vô thường sanh diệt, tâm độngnên tâm vô thường sinh diệt. Chấp thân vô thường sinh diệt là thân mình, chấptâm vô thường sinh diệt là tâm mình, đó là sai lầm. Nếu buông hai thứ chấp đó,chỉ nhận cái không động, không sinh diệt, không có tướng trạng vô thường, hằngyên tĩnh sáng suốt đó, thì làm gì bị dẫn đi trong luân hồi.

Có tu rồi, chúng ta sẽthấy nó rõ ràng, không còn nghi ngờ gì hết. Sống được với những phút giây chânthật, ta mới thấy khi suy nghĩ dứt bặt thì chân thật hiện tiền, chớ không phảikhông có. Chúng ta không nhận ra nó là vì mình cứ suy nghĩ hoài, hết chuyện nàytới chuyện kia, mãi chạy theo những suy nghĩ thì làm sao biết rằng khi khôngsuy nghĩ, lại có cái chân thật. Vì vậy nói thiền dễ định. Ðịnh là dừng hếtnhững suy nghĩ. Dừng hết suy nghĩ thì cái chân thật hiện tiền. Nhận ra cái đóthì tỉnh thì giác, gọi là giác ngộ. Tức thấy được lẽ thật của thân tâm, giảbiết giả, thật biết thật. Ðó là kiến tánh, là thấy đạo. Ðơn giản vậy thôi.

Trong nhà Phật dạythân, miệng, ý tạo tác các nghiệp, mà chủ yếu là ý. Ý nghĩ tốt, miệng nói tốt,thân làm tốt. Ý nghĩ xấu, miệng nói xấu, thân làm xấu. Ý là chủ tạo nghiệp. Ýnghĩ này lặng đi thì còn cái gì tạo nghiệp. Nghiệp là gốc dẫn chúng ta đi trongluân hồi sinh tử. Nếu hết nghiệp thì cái gì dẫn chúng ta nữa, như vậy khônggiải thoát là gì?

Cho nên giác ngộ đượcthân vô thường, tâm sinh diệt, thì cái chân thật hiện tiền không sinh, khôngdiệt. Sống được với cái chân thật này thì không còn tạo nghiệp đi trong luânhồi sanh tử nữa. Như vậy rõ ràng tu là để giải thoát sanh tử.

Mục đích của chúng tatu không gì khác hơn trọng tâm của đức Phật dạy "xoay lại con người".Vì con người là tối thượng. Dù có bay được trên hư không (bây giờ chúng ta đimáy bay phản lực), hay cất nhà lầu chín chục tầng v.v... đều là vô thường, naycòn mai mất. Chỉ có trở lại tâm chân thật không hình không tướng của mình, làkhông vô thường; hằng giác không động nên không sinh diệt. Ðó mới là chân thật.Ðược vậy chúng ta sẽ tin lời Phật dạy không hư dối.

Hôm nay tôi nhắc tấtcả quí Phật tử hiểu được căn bản của việc tu hành. Vậy từ đây về sau huynh đệhòa hợp với nhau, với tư cách cư sĩ vừa lo đời, vừa lo đạo. Lo đó chính là locho mình. Ðể ngày mai quí vị có nhắm mắt, dù chưa hết niệm sinh diệt thì cũngsinh diệt trong cảnh tốt. Bằng như được hết sinh diệt thì thảnh thơi tự tại,còn gì quí hơn!

Mong quí Phật tử nỗlực tinh tấn tu hành.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
12/06/2021(Xem: 3699)
Nữ diễn viên nhìn vào trong hồ nước và trông thấy một khuôn mặt tuyệt vời, hàm răng hoàn hảo và một thân hình xứng hợp. Cô hỏi: “Chao ơi, sao tôi lại không thành một tài tử?” Con nhái nói: “Tôi có thể làm cho cô thành minh tinh.” Cô diễn viên la lên: “Mi là ai vậy?”
12/06/2021(Xem: 4599)
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật - Kính thưa chư Tôn đức, chư Thiện hữu & quí vị hảo tâm. Vào ngày Thứ Ba (June 08) vừa qua, được sự cho phép của chính quyền địa phương làng Tikabigar và Kutitya Village Bihar India, nhóm Từ thiện Bodhgaya Heart chúng con, chúng tôi đã tiếp tục hành trình cứu trợ thực phẩm cho dân nghèo mùa Dịch covid. Xin mời chư vị xem qua một vài hình ảnh tường trình.. Buổi phát quà cứu trợ cho 377 căn hộ tại 2 ngôi làng cách Bồ đề Đạo Tràng chừng 8 cây số. Thành phần quà tặng cho mỗi hộ gồm có: 10 ký Gạo và bột Chapati, 1 bộ áo Sari, 2 ký đường, dầu ăn, bánh ngọt cho trẻ em và 100Rupees tiên mặt (Mỗi phần quà trị giá: 15usd.75cents >< 377 hộ = . Bên cạnh đó là những phần phụ phí như mướn xe chở hàng, tiền công đóng gói và công thợ khuân vác, tiền quà cho những người sắp xếp trật tự tại nơi phát chẩn.)
12/06/2021(Xem: 5057)
Bài này được viết để hồi hướng các thiện hạnh có được để nguyện xin bình an và giải thoát cho tất cả đồng bào nơi quê nhà, vá cho chúng sanh khắp ba cõi sáu đường. Trong bài là một số ghi chú trong khi đọc Kinh luận, không nhất thiết theo một thứ tự nào. Các đề tài phần lớn ít được nhắc tới, nhưng đa dạng, có thể là quan tâm của nhiều người, từ thắc mắc rằng có khi nào Đức Phật đã dạy về ăn chay, cho tới câu hỏi có cần tu đầy đủ tứ thiền bát định hay không, và vân vân. Nơi đây sẽ tránh các lý luận phức tạp, chủ yếu ghi các lời dạy thực dụng từ Kinh luận để tu tập. Bản thân người viết không có thẩm quyền nào, do vậy phần lớn sẽ là trích dẫn Kinh luận.
10/06/2021(Xem: 14435)
NGỎ Từ khi vào chùa với tuổi để chỏm, Bổn sư thế độ đã trao cho tôi bản kinh "Phật thuyết A-di-đà" bằng chữ Hán, bản dịch của ngài Cưu-ma-la-thập và dạy phải học thuộc lòng, rồi theo đại chúng đi thực tập tụng kinh vào mỗi buổi chiều. Học và tụng thuộc lòng ngâm nga vào mỗi buổi chiều, mà chẳng hiểu gì, nhưng tôi lại rất thích. Thích không phải vì hiểu mà thích là vì được tụng kinh, lời kinh của Phật. Thích không phải vì hiểu, mà thích vì niềm tin xuất gia của mình được đặt trọn vẹn vào thời kinh mình đang tụng ấy. Và mỗi khi tụng, lại thấy gốc rễ tâm linh của mình lớn lên. Nó lớn lên mỗi khi mình tụng và nó lớn lên mỗi ngày, đến nỗi thấy cái gì ở trong chùa cũng đẹp, cũng thánh thiện và thấy ai đến chùa cũng đều phát xuất từ tâm hồn thánh thiện.
09/06/2021(Xem: 5375)
Mới đó mà Ông ra đi đã 5 năm rồi! Tháng 5 lại trở về. Nhớ đến Ông tôi lại muốn viết mà có lẽ viết bao nhiêu cũng không đủ. Ông ra đi đã để lại một niềm xúc động trong trái tim tôi, và không chỉ riêng tôi mà còn biết bao người, bao gia đình đã được Ông cứu vớt từ con tàu CAP ANAMUR khi những con thuyền người Việt lênh đênh trên đường vượt biên ngày nào. Ông chính là đại ân nhân của gia đình tôi, vì nếu không có Ông, con tôi đã nằm trong bụng cá từ lâu rồi. Chính vì vậy, gia đình tôi vẫn nhớ ơn Ông đời đời và cũng thật bàng hoàng đau đớn lúc hay tin Ông đã lìa cõi trần. Bây giờ ngồi nhớ lại nỗi đau ấy vẫn còn như đâu đây.
09/06/2021(Xem: 4882)
Kể từ khi con người mới bắt đầu xuất hiện trên quả địa cầu nầy. Trong trang nghiêm kiếp của quá khứ, hiền kiếp của hiện tại, hay tinh tú kiếp của tương lai thì sự tu học của chư Tăng Ni và Phật tử vẫn là những điều kiện cần thiết để xiển dương giáo lý Phật đà. Nhằm tiếp nối tinh hoa tuệ giác siêu việt của chư Phật, chư Bồ tát, chư vị Tổ sư đã kinh qua trong suốt nhiều đời, nhiều kiếp mới có được sự kế tục đến ngày hôm nay. Nếu dùng thời gian hiện tại của kiếp nầy, kể từ thời Đức Phật Thích-ca Mâu-ni giáng thế đến nay chỉ trên 2.500 năm, mà chúng ta đã có vô số văn kiện và dữ liệu để tham cứu học hỏi, tu niệm, và cần bàn đến. Gần gũi và trung thực nhất là hai bộ thánh điển Phật giáo của truyền thống Nam và Bắc truyền. Nếu căn cứ theo đó để nghiên cứu thì chúng ta sẽ có một đáp án tương đối chính xác để ghi nhận những giá trị về Văn hóa và Giáo dục xuyên qua nhiều tâm lực và nguyện lực của các bậc tiền nhân.
09/06/2021(Xem: 5705)
NHƯ LỜI GIỚI THIỆU CỦA ARTHUR Zajonc, cuộc gặp gỡ Tâm thức và Đời Sống lần thứ mười đã đưa chúng ta vào một hành trình dài, từ những thành phần đơn giản nhất của vật chất đến sự phức tạp của ý thức con người. Cuốn sách này theo dõi hành trình đó diễn ra trong suốt một tuần trong một căn phòng chật cứng tại tư dinh của Đức Đạt Lai Lạt Ma trên ngưỡng cửa của dãy Himalaya. Làm thế nào để bắt đầu theo dõi quỹ đạo đầy tham vọng, dường như bao la này? Chúng ta sẽ bắt đầu với tuyên bố mờ đầu thuyết trình của Steven Chu, nhà vật lý đoạt giải Nobel: “Điều quan trọng nhất mà chúng ta biết là thế giới được tạo ra từ các nguyên tử. Đây là quan điểm mà hầu hết các nhà vật lý ngày nay, vào đầu thế kỷ XXI, đồng ý với quan điểm này ”.
09/06/2021(Xem: 5836)
Trong Phật bảo, pháp bảo và Tăng bảo, Chúng con quy y cho đến khi đạt đến giác ngộ. Qua công đức của thực hành sáu ba la mật, Nguyện cho chúng con thành tựu quả Phật vì lợi ích của tất cả chúng sanh.
07/06/2021(Xem: 13537)
Trong mùa an cư kiết hạ năm nay (1984), sau khi đã viết xong quyển "Lễ Nhạc Phật Giáo“, tôi định dịch quyển luận "Đại Thừa Khởi Tín" từ Đại Tạng Kinh, cùng với quý Thầy khác, nhưng không thực hiện được ý định đó. Vì quý Thầy bận nhiều Phật sự phải đi xa. Do đó, tôi đình chỉ việc dịch trên. Sở dĩ như thế, vì tôi nghĩ, tài mình còn non, sức còn kém; đem ý thô sơ, tâm vụng dịch lời kinh Phật chỉ một mình làm sao tránh được những lỗi lầm, thiếu sót. Nếu có nhiều Thầy dịch cùng một lúc, văn ý trong sáng mà lại bổ khuyết cho nhau chỗ thừa, nơi thiếu thì hay hơn; thôi đành phải chờ dịp khác vậy.
07/06/2021(Xem: 14138)
LỜI NÓI ĐẦU Hôm nay là ngày 1 tháng 8 năm 2020, nhằm ngày 12 tháng 6 âm lịch năm Canh Tý, Phật lịch 2564, Phật Đản lần thứ 2644, tại thư phòng Tổ Đình Viên Giác, Hannover, Đức Quốc, tôi bắt đầu viết tác phẩm thứ 68. Hôm nay cũng là ngày có nhiệt độ cao nhất, 32 độ C, trong mùa dịch Covid-19 đang lan truyền khắp nơi trên thế giới. Sau hơn 5 tháng ròng rã, tôi đã đọc qua 8 tập kinh Việt dịch trong Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh, từ tập 195 đến tập 202, thuộc Bộ Sự Vị, được dịch từ 2 tập 53 và 54 của Đại Chánh Tạng.1 Nguyên văn chữ Hán 2 tập này gồm 2.260 trang.2 Bản dịch sang tiếng Việt của 2 tập này là 15.781 trang, chia thành 8 tập như đã nói trên. Như vậy, trung bình cứ mỗi trang chữ Hán dịch ra tiếng Việt khoảng 7 trang.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]