Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

03. Một chữ Xả

17/02/201114:54(Xem: 5971)
03. Một chữ Xả

NGUỒN AN LẠC
Hòa thượngThích Thanh Từ
Thường Chiếu,PL 2545 - TL 2001

03

MỘT CHỮ XẢ
Giảng tại Thiền viện Chân Không - 1998.

Vấn đề tôi nói hôm nay là một chữ XẢ.Quí vị biết ngược với xả là gì không? Là cố chấp, nắm chặt. Cố là chặt, chấp lànắm; cố chấp là nắm chặt. Khác với nắm chặt là buông bỏ.

Mới nghe đơn giản quánhưng xét kỹ, quí Phật tử sẽ thấy tất cả chúng ta sống trên thế gian này, aicũng than buồn than khổ, gốc tại cố chấp thôi, chớ không có gì khác. Bây giờmuốn hết buồn, hết khổ thì chúng ta phải làm sao? Phải xả, phải buông bỏ. Buôngbỏ thì hết khổ. Như vậy quá giản đơn, quá tầm thường. Chỉ cần quí Phật tử thựchiện được điều chúng tôi nhắc thì sẽ bớt khổ ngay trong cuộc sống hiện tại này.

Lâu nay chúng ta cốchấp những gì mà bây giờ phải buông xả? Trước hết là chúng ta cố chấp nhữngđiều phải, quấy. Thường thường ở thế gian ai cũng nghĩ điều mình nói, mình làmlà phải nhưng người khác nói ngược lại, làm ngược lại thì cho là người khácquấy. Mình phải họ quấy mà họ không chịu nghe, không chịu làm theo mình, nênmình giận. Nhất là trong gia đình, cha mẹ thấy điều đó phải mà bảo con cháukhông chịu làm theo thì nhất định là giận. Mà giận là vui hay buồn? Giận làbuồn, buồn rồi khổ. Có một Phật tử nói với tôi thế này:

- Con cháu của con bâygiờ khó dạy quá!

Tôi hỏi:

- Sao đạo hữu nói khódạy?

- Thưa Thầy, mình làcha nó mình hớt tóc ngắn. Mình thấy hớt tóc ngắn dễ chịu, mát mẻ. Bây giờ nó đểtóc tới cổ mà rầy nó không chịu nghe. Nó còn nói: "Bây giờ thanh niên aicũng để tóc dài mà ba biểu hớt ngắn, giống ông già quá, sao con làm được."Chúng nó còn nhỏ mười chín, hai mươi tuổi mà đeo kính trắng, mình rầy nó:"Bộ mày mù sao mà đeo kính?" Nó nói: "Ba không thấy sao, ngườitrí thức họ đeo kính trắng. Con lớp mười hai rồi, con trí thức rồi, con đeokính trắng có sao đâu?!"

Ðó, ông than con cháungày nay dạy không được. Quí vị thấy thế nào? Bởi vì thường lúc nào chúng tacũng có cái nhìn theo quan niệm của mình. Quan niệm của mình như vậy là phải,con cháu không chịu nghe theo thì mình giận, cho nó là quấy, là con ngỗ nghịch,con bất hiếu v.v... Khi đã như vậy rồi thì gia đình còn đầm ấm không, còn vuikhông? Tôi mới giải thích cho Phật tử đó nghe:

- Ðạo hữu nhớ như ởlứa tuổi của tôi, ông thân tôi hồi xưa để tóc bới có một củ tỏi phía sau. Tớichừng lớp của tôi lớn lên thì hớt tóc, ông tôi không vui. Ông nói bọn nhỏ vănminh quá, không có theo ông bà và dẫn sách Nho nói: "Thân thể phát phu thọư phụ mẫu, bất thương cảm hiếu chi thỉ giả." Nghĩa là râu tóc da thịt nàylà nhận nơi cha mẹ, gìn giữ nó đừng cho thương tổn là cái hiếu đầu. Bây giờmình cạo nó là bất hiếu rồi. Như vậy ông già nhìn lại mình hớt tóc thì ông giàbuồn, còn mình nhìn lại ông già thì thấy ông già lạc hậu phải không? Thế thì aiđúng? Ðể tóc bới đúng hay hớt ngắn đúng? Nếu hai bên cứ cố chấp, ông già nghĩông già đúng, người con nghĩ người con đúng thì gia đình có bình an không? Chắclà bất an.

Chúng ta phải hiểuthời xưa học theo Nho giáo thì để râu để tóc là phải. Nhưng thời sau này kháchơn vì nước mình lệ thuộc Pháp, người Pháp đi làm việc hớt tóc ngắn cho sạch sẽmà mình cứ bảo như ông già để tóc, vậy thì lạc hậu mất rồi. Ở lứa tuổi của mìnhai chấp nhận như thế? Cho nên người cha phải thông cảm hoàn cảnh của con, ngườicon phải hiểu hoàn cảnh của cha. Hai bên thông cảm nhau đừng cố chấp thì bớtkhổ. Nếu cố chấp là nhất định khổ. Cha bất bình con, con bất mãn cha, cứ nhưvậy sanh ra chuyện rối rắm trong gia đình.

Rồi đến thời này mấyđứa nhỏ để tóc dài, có khi tới cổ thì mình không chấp nhận? Mình để tóc ngắnmát mẻ, còn nó để dài lù xù nhưng nó lại thấy đẹp. Nếu đem cái nhìn của ngườicha mà trách đứa con thì đứa con cũng nhìn lại người cha bằng cặp mắt lạc hậu.Bây giờ phải xử làm sao? Thôi, ba muốn mát mẻ ba hớt ngắn, con thích để dài chođẹp thì con cứ để dài. Chuyện tóc tai, mỗi người mỗi sở thích riêng, bắt nógiống mình sao được?

Quí Phật tử nhớ, mộtlứa tuổi là qua một thế hệ khác nhau, không giống nhau được. Không giống màmình đem ý của mình, cái phải của mình áp đặt cho nó thì nó không chịu. Màkhông chịu thì sanh ra giận hờn, buồn trách, khổ sở. Vậy thì muốn cho hết khổmình đừng cố chấp, phải buông bỏ. Buông nghĩa là xả. Quan niệm của con thì conlàm, quan niệm của ba thì ba giữ. Phần ai nấy giữ, người này đừng áp đặt ngườikia. Như thế chúng ta sống rất là thoải mái, nhẹ nhàng. Còn nếu mình cố chấpthì sống bực hoài, lúc nào cũng bất như ý. Như nó thích mang kính trắng thì đểnó mang, mình không thích thì thôi. Chớ mình không thích mà bắt nó theo mìnhsao được? Ðó là quan niệm của mỗi người, miễn làm sao con biết kính trọng,thương cha, cha thương con là đủ. Tình thương mới là quan trọng, còn những cáibên ngoài đâu có quan trọng.

Vậy mà nhiều người vìcố chấp hình thức bên ngoài làm cho mất hết tình nghĩa trong gia đình, khiếncha con phiền muộn, vợ chồng không vui với nhau. Ðó là tại cố chấp. Quí Phật tửnghĩ mình xả bỏ, đừng cố chấp có bớt khổ không? Còn cố chấp như câu chuyện tôivừa kể khổ không? Lúc nào cũng buồn bực. Vì vậy cha mẹ nên thông cảm với con,con thông cảm với cha mẹ. Mà muốn được thông cảm thì hai bên đều xả, xả cáiphải của mình thì thông cảm. Ngược lại, nếu không chịu xả, tự nhiên là khổ.

Ðó là nói về lứa tuổigiữa người lớn và người trẻ. Còn nếu vợ chồng mà cố chấp thì sao, có khổ không?Như bên phái nữ lâu nay quen rồi, nào là lọ tương, hũ tiêu, hũ ớt v.v... Nhữngcái nhỏ họ coi chừng từng chút để nấu nướng. Còn người đàn ông đâu có để ý đếnnhững thứ đó, mà họ nghĩ chuyện xã giao bên ngoài người này người nọ. Cho nênngười chồng vì xã giao bạn bè nhiều, thành ra chi phí hơi rộng. Người phụ nữchỉ lo chi tiết nhỏ trong nhà nên tiết kiệm, thấy chồng xài lớn một chút thìcàm ràm. Còn chồng thấy vợ keo kiệt, nhỏ nhít quá cũng không bằng lòng. Như vậyvợ trách chồng lãng phí, chồng chê vợ keo kiệt. Ðã thế thì gia đình có vuikhông? Không bên nào bằng lòng bên nào hết! Vì ai cũng nghĩ mình đúng.

Như vậy nếu người vợbắt người chồng phải theo ý của mình, ngược lại người chồng bắt vợ phải theo ýcủa mình thì gia đình đó nhất định cãi lộn hoài. Nếu hai bên chồng và vợ cảmthông nhau, người chồng nghĩ rằng cô ấy lo chuyện bếp núc cho nên quen cái nhỏnhặt, hũ tương, hũ ớt v.v... thành ra xài lớn cô không đồng ý cũng phải. Còn vợthông cảm cho chồng, bởi vì anh ấy làm bên ngoài, giao thiệp kẻ này người nọthì phải rộng rãi một chút người ta mới vui. Nếu bắt chồng hẹp hòi quá thì bạnbè khi, không chơi với mình, như vậy tội nghiệp. Hai bên thông cảm thì gia đìnhsống sẽ vui, không chống chọi nhau. Ðó là tôi nói những việc nhỏ thôi, cònnhững việc lớn khác nữa, quí vị nghiệm xét rồi thông cảm, hiểu biết nhau đừngcố chấp, cố chấp thì khổ.

Như vậy xả bỏ là tu,còn cố chấp là chưa biết tu.Thế gian do cố chấp nên người nào cũng thấy sống trong gia đình không có hạnhphúc. Ðã cố chấp thì làm sao hạnh phúc được? Chồng chấp theo chồng, vợ chấptheo vợ, cha chấp theo cha, con chấp theo con, thành ra không ai thông cảm ai.Mà không thông cảm thì tự nhiên là phải buồn phải khổ. Bây giờ mỗi người tự xảbỏ cố chấp của mình để thông cảm với những người thân thì tự nhiên gia đình anvui hạnh phúc. Ðó là bước thứ nhất xả chấp phải, chấp quấy theo quan niệm củamình.

Ðến thứ hai nữa là xảoán hờn. Người thế gian luôn luôn nghĩ ai làm trái ý mình thì mình buồn, mìnhgiận. Buồn giận nên bỏ liền hay nên giữ mãi? Có người thường hay nói: "Congiận người đó hai, ba chục năm không quên." Giận hai, ba chục năm khôngquên thì nghe như khẳng khái lắm nhưng thật ra là dại, là khổ, chớ có hay gìđâu.

Quí Phật tử nghĩ trênthế gian này chung quanh mình nào xóm giềng, thân tộc v.v... có bao giờ hoàntoàn không đụng chạm nhau đâu? Người ta nói vợ chồng như chén trong sống. Chénúp trong sống thế nào cũng có khua, huống là xóm giềng, thân tộc làm sao vừa ýmình hết, mà trái ý thì mình giận. Giận rồi chứa trong tâm. Chứa là cố chấp.Giận một người chứa trong lòng, giận hai người cũng chứa trong lòng. Nếu giậnmột trăm người thì sao? Chứa cả một trăm cái giận trong lòng, làm sao chịu nổi.

Quí vị xét khi mìnhđang vui vẻ mà bỗng nhớ tới người mình giận thì lúc đó gương mặt quạu xuốngliền. Sở dĩ chúng ta ngủ không ngon là cũng tại giận đó. Khi nào nằm nhớ lạihôm qua, hôm kia ai làm trái ý mình liền nổi giận lên, thì hết ngủ. Ðó là chứachấp oán hờn. Chứa chấp là khổ. Ta đang vui vẻ tươi mát mà chứa một cái giận,cũng như đem cục than bỏ trong tay hay trong da, trong thịt mình vậy. Nếu cụcthan bỏ trong tay, trong da, trong thịt thì sao? Nóng, khó chịu. Vậy mà lòngmình chứa một trăm cục than thì người này khổ nhiều ít? Khổ thứ nhất là khô héovì ngủ không ngon, ăn không ngon. Giận quá làm sao ăn ngon, ngủ ngon được. Khổthứ hai là giận làm cho mình dễ xấu. Quí vị thấy mỗi lần nổi giận lên gương mặtmình thế nào? Nổi giận lên thì con mắt đỏ ngầu, mặt đổi màu đổi sắc, không còntốt đẹp nữa. Cả trăm cái giận ở trong lòng thì nó đốt riết mình khô héo, xấuxa. Như vậy ôm ấp cái giận mấy chục năm là khôn ngoan hay thiếu khôn ngoan?

Bởi vậy nên người biếttu ai nói gì trái ý, mình giận chút rồi bỏ đi, xả đi. Giận làm chi, ngu! Ôm cáigiận là ngu chớ không phải khôn, tội gì ôm cho khổ. Trong nhà Phật có câu:"Tăng hận bất cách túc" nghĩa là Tăng (người tu) giận không quá mộtđêm. Chúng ta là Phàm tăng nên tham sân si cũng còn, vì vậy gặp việc trái ýcũng giận. Nhưng giận chút thôi rồi bỏ, chớ không nên chấp chứa.

Người thế gian thườngthích chứa, chứa năm này qua năm nọ. Họ tưởng như vậy là hay, là khôn mà khôngngờ đó là tự chuốc họa vào mình, tự đeo khổ cho mình chớ không có lợi gì hết.Vì vậy nên Phật dạy phải xả hết những giận hờn. Chứa chấp vừa bị khổ trong hiệntại, mà còn khổ cả vị lai nữa.

Trong kinh Phật dạy,người khi sắp bỏ thân này qua đời khác thì nghiệp thương và nghiệp ghét sẽ đitheo. Bởi vì thương ai thì ta nhớ người đó, ghét ai cũng nhớ kẻ đó. Như chúngta ngồi ôn lại trong lòng, thì nhớ những người mình thương và những người mìnhghét nhiều nhất phải không? Ghét không mất, thương cũng không mất. Vì vậy càngchứa sâu thì khi nhắm mắt các nghiệp đó dẫn mình đi đến chỗ thương hoặc chỗghét.

Do đó khi chúng ta thọthân sau, nếu ôm ấp nghiệp ghét nhiều quá thì đến những gia đình gặp toànchuyện buồn phiền, hờn giận, không vui. Có bao giờ chúng ta muốn gặp nhữngngười mình ghét không? Không muốn. Ai cũng muốn gặp người mình thương. Nhưngtrong lòng thù oán nhiều quá thì nó sẽ dẫn mình gặp lại những người thù oán.Nên hiện tại khổ mà vị lai cũng khổ luôn. Ðiều này rất thiết yếu.

Chúng ta phải khéođừng nuôi dưỡng oán thù trong lòng, nên buông bỏ hết. Cái gì qua rồi không chứachấp nữa. Hơn thua, phải quấy, chuyện đó không có gì quan trọng. Quan trọng ởchỗ làm sao cuộc sống mình bình an, thanh thản, tươi vui. Ðó mới là điều đánglưu tâm. Chúng ta sống muốn hạnh phúc, muốn được an lạc thì nên giữ hay nên xả?Nên xả. Vì vậy tôi nói tu muốn cho hết khổ thì phải xả, đừng chứa chấp. Ðó làđiều thứ hai.

Ðiều thứ ba, chúng tađừng cố chấp ý kiến mình là đúng, ý kiến người khác là sai. Bởi vì ở thế giannày không có gì là đúng cố định mà cũng không có gì là sai cố định. Chúng ta mởmiệng nói với ai cũng "Tôi nghĩ thế này là đúng". Nếu nói tôi nghĩnhư vậy là đúng, người thứ hai nói tôi nghĩ thế khác mới đúng, thì hai cái đúngnó đụng nhau. Mình đúng theo cái nghĩ của mình, người khác đúng theo cái nghĩcủa họ. Ai cũng đúng hết thì cãi lộn hay huề? Thế gian không ai chịu thua ai,mình đúng thì người khác sai, mà người khác đúng thì mình sai. Cho nên khingười ta nghĩ khác với mình, mà họ cho rằng họ đúng thì mình bực lên liền, vàngười kia cũng nổi tức vậy. Hai cái nổi tức sẽ đi đến khẩu chiến. Khẩu chiếnkhông xong thì tới thân chiến.

Quí vị thấy nhữngngười cãi nhau, đánh nhau khi được hỏi: "Tại sao quí vị đánh nhau?"Họ nói: "Tôi nói cái này đúng mà nó cứ cãi hoài." Có khi nào haingười cãi lộn mà chúng ta hỏi "tại sao", họ nói "tại tôisai" đâu. Nhất định là đúng. Hai cái đúng không giống nhau thì nhất địnhcãi lộn, cãi lộn không xong thì tới đánh lộn. Như vậy thì khổ hay vui? Khôngbao giờ vui được. Những điều này xảy ra rất nhiều.

Gia đình vợ chồng, mỗingười thấy một lối, ai cũng cho là đúng thì gia đình đó cãi lộn hoài. Trong xãhội, nhóm này thấy thế này là đúng, nhóm kia thấy thế khác là đúng thì cũng gâyra cuộc đấu chiến. Cả trên thế gian đều như vậy. Nếu cố chấp cái nghĩ của mìnhđúng, cái nghĩ của người khác sai là gốc của đấu tranh, của tiêu diệt nhau. Chonên chúng ta đừng có cố chấp. Cái đúng này là đúng của tôi, cái đúng kia làđúng của anh. Mỗi người giữ phần của mình, cãi nhau làm chi. Vậy là yên.

Xả hết cố chấp, đừngbắt người khác phải nghĩ, phải thấy như mình mới đúng. Ðó là điểm đặc biệt củađạo Phật. Trong đạo Phật có câu: "Phật hóa hữu duyên nhân", đức Phậtgiáo hóa người có duyên với Ngài mà thôi. Ai có duyên thì đến với Phật, chớPhật không nói đạo Phật là đúng, đạo khác là sai. Theo đạo nào cũng tốt. Mìnhthích đạo Phật vì đạo Phật thích hợp với tâm tư nguyện vọng của mình nên mìnhtheo, người khác không thích thì thôi. Chúng ta không nên nói theo đạo Phậtchết được về Cực lạc, còn theo đạo khác chết nhất định đọa địa ngục. Không nênnhư vậy.

Trong kinh Phật nhấtlà các bộ A-hàm, Phật thường nói: "Người tu theo đạo Phật làm lành, tuThập thiện được phước sanh cõi trời. Người không tu theo đạo Phật mà làm mườiđiều lành cũng được sanh cõi trời." Không phải cõi trời chỉ dành cho ngườitu theo đạo Phật. Bởi vậy người không tu theo đạo Phật mà làm lành, làm tốt họvẫn có phước. Mình tu theo đạo Phật mà mình làm xấu làm ác thì mình cũng bị tộinhư thường. Chúng ta mới thấy rằng chủ trương của đức Phật rất rõ ràng, rấtthấu đáo. Phật không bắt ai phải theo mình dù biết rằng làm như vậy là tốt, làcó lợi. Nếu người ta không thích thì thôi, không ép buộc.

Chúng ta học Phật phảitập tâm cởi mở, xả bỏ những cố chấp riêng tư, dù chấp tôn giáo mình cũng làbệnh nữa. Những gì chúng ta thấy đều do Phật dạy, mình biết mình tu. Ai thấyhợp thì tu theo, còn thấy không hợp thì thôi, ta chỉ cười chớ đừng giận. Ðạomình kính trọng mà nghe ai nói ngược lại, mình nổi sùng lên thì chưa gọi làhiểu đạo. Không cố chấp thì cuộc đời an vui, hạnh phúc, sống với mọi người rấthòa nhã.

Ðiều thứ tư là Phậtdạy xả đừng chấp thân của mình nữa. Quí vị thấy dễ hay khó? Xả mấy điểm kia thìcòn khả dĩ, xả chấp thân mình thì hơi khó. Tôi hỏi quí vị trong tất cả cái sợcủa mình hiện giờ, cái sợ nào là số một? Sợ chết là số một. Tại sao mình sợchết? Vì cố giữ thân, cố chấp thân, nên nghe nói mất đi thì hoảng sợ. Do đó khicái chết đến mình khổ vô cùng.

Chúng ta xét kỹ thâncủa mình, ai cũng muốn cho nó được tròn một trăm năm. Hồi xưa còn tham hơn nữa,hàng quần thần chúc vua chúa đến Vạn tuế, tức là muôn năm. Chúc muôn năm, mà cóông vua nào sống được muôn năm đâu. Mấy ông còn chết sớm hơn ai hết. Như vậy đểthấy lòng tham sống của con người quá lớn. Bởi tham sống cho nên chết là cáikhổ nhất.

Nếu người không thamsống thì chết có khổ không? Ðâu có khổ vì họ đâu có sợ. Nên quí vị cố chấpthân, muốn giữ cho nó lâu dài, mà lỡ nó bại hoại thì đau khổ vô cùng. Thân mìnhđâu có nguyên vẹn từ thỉ chí chung, mà nó đổi thay từng tháng, từng ngày. Nhưvậy muốn nó còn hoài, chẳng khác nào mình nắm một cục nước đá trong tay mà muốnnó đừng tan. Thân này cũng vậy, luôn biến chuyển từng phút giây. Ðó là nói bìnhthường, còn nói theo khoa học là nó sanh diệt từng tế bào. Lúc nào, phút nàocũng sanh sanh diệt diệt, không dừng. Sanh diệt luôn luôn mà bảo nó còn hoàilàm sao được. Chấp như vậy có phải là ảo tưởng không? Ảo tưởng sai lầm mà chúngta cứ chấp giữ, cho nên khổ vô cùng.

Vậy mà trăm người nhưmột, ai cũng muốn giữ thân lâu dài. Nhiều khi bảy, tám mươi tuổi vẫn muốn sốnghoài, không muốn chết. Muốn giữ hoài mà có giữ được đâu. Giữ không được thì khổhay vui? Người lớn tuổi nào cũng thở dài than vắn, khổ quá! Già yếu bệnh hoạn,khổ quá!

Thật ra già yếu, bệnhhoạn có khổ không? Có gì đâu mà khổ, nó là như vậy. Hết thời ấu niên đến thờitráng niên, hết thời tráng niên đến thời trung niên, hết thời trung niên đếnthời lão niên. Cứ thế mà đổi dời. Nên khi trẻ mình vui với tuổi trẻ, lúc giàmình vui với tuổi già. Mai mốt chết thì cười với cái chết, sướng không? Chớngồi đó mà than, ai cứu mình được. Không ai cứu được thì than hoài làm chi chokhổ vậy? Cứ cười vui. Ờ! Già tốt. Nếu đi hai chân không vững thì thêm chân thứba nữa. Cứ như vậy mà chống gậy, có gì đâu phải buồn. Xả được cố chấp thì vui,còn nếu giữ thì khổ. Lẽ thật là như vậy.

Con người sợ chếtnhưng có giữ cho khỏi chết được không? Nếu giữ được thì cũng nên sợ. Giữ khôngđược thì cứ cười vui cho rồi. Quí vị nghĩ nếu lát nữa chết, chúng ta sẽ có cáigì vui? Hiện tại mình biết hết các việc trên thế gian rồi, biết sự sống nàyrồi. Người ta nói đi du lịch vui chơi đó đây là tới những chỗ mình chưa biết,còn những chỗ nào biết rồi, đi chán lắm. Chúng ta đã ở trên thế gian mấy chụcnăm, chán quá rồi. Bây giờ đi tới chỗ khác chơi cho vui thì sợ gì. Khi sắpchết, mình tự nghĩ ta sẽ biết thêm một chỗ mới nữa. Vậy là vui chớ không sợ.Chúng ta sống vui với cái sống, chết cũng vui với cái chết, như vậy là an vui,tự tại.

Người không sợ chếtthì chết không phải là khổ. Sở dĩ khổ là vì người ta chấp chặt phải sống, sốngchừng nào cũng được, sống hoài. Chấp chặt vậy cho nên lỡ ai coi tuổi hoặc bắtmạch nói bệnh sắp chết liền quên ăn, quên ngủ. Nếu hiểu được lẽ thật thì chếtlà vui thôi. Ờ, tôi ở đây mấy chục năm chán rồi, đi chỗ khác chơi cho vui. Ðó,nghĩ vậy thì cứ cười mà đi, có tự tại không? Rõ ràng nếu buông xả cố chấp thìchúng ta an vui. Còn bám chặt giữ mãi thì chúng ta đau khổ.

Cuộc đời là một dòngbiến chuyển từ ngoại vật cho tới con người. Nó biến chuyển mà chúng ta cố giữthì có phải là si mê không? Cho nên Phật nói người trí biết được vô thường biếnchuyển nên không khổ. Còn người ngu, đối với vô thường biến chuyển mà muốn cònnguyên vẹn nên khổ. Bản thân mình nó phải biến hoại, phải mất; chúng ta biết rõrồi cười với nó, không sợ, là chúng ta khéo tu.

Tu là như vậy, chớkhông phải vừa mới bệnh liền chạy tới cầu Phật cho con sống được năm năm, mườinăm. Phật tử bệnh tới chùa nhờ quí thầy cầu an. Quí thầy cầu cho Phật tử an,còn quí thầy không an thì cầu ai? Nếu tất cả người bệnh cầu đều được an thìkhông ai chết hết. Nhưng thật ra đâu có chuyện đó. Kỳ này cầu an là tại họ chưachết, kỳ sau tới lúc chết thì cầu gì cũng chết thôi, cầu an cũng không khỏi.

Như vậy để thấy chúngta tu là phải nhận ra lẽ thật của cuộc đời, thấy rõ được lẽ thật của bản thânmình. Ðừng lầm lẫn mới an vui, khỏi phải nhờ ai cầu gì hết, cũng khỏi cần coitướng coi số làm chi. Cuộc đời là như vậy, không có gì phải lo. Năm mươi tuổichết cũng tốt, bảy mươi tuổi chết cũng tốt, tám mươi tuổi chết cũng tốt, khôngsao hết. Tôi thường hay nói ai rồi cũng chết một lần, chớ có ai chết hoài đâuphải không? Thì thôi lúc nào tới thì đi một lần, chớ đâu có đi hoài mà sợ.

Phật dạy khi bỏ thânnày, muốn có thân khác đẹp hơn thì phải tạo duyên tốt. Như giữ được năm giớitrọn vẹn thì đời sau trở lại làm người đủ năm điều kiện tốt: Không sát sanh thìtuổi thọ dài. Không trộm cướp thì có nhiều của. Không tà dâm thì đẹp đẽ trangnghiêm. Không nói dối thì ngôn ngữ được lưu loát. Không uống rượu, xì ke ma túythì trí tuệ thông minh. Nếu thiếu một trong năm giới thì đời sau bất hạnh mộtphần. Ai muốn đời sau được thân tốt đẹp hơn thân người thì tu Thập thiện.

Như vậy chết khôngđáng sợ mà chỉ sợ mình không chuẩn bị được khi mất thân này. Ðến lúc ngã rachết không làm điều lành, không tạo phước đức thì chừng đó khổ hơn nữa. Cho nênbiết tu thì trong cuộc sống hiện tại chúng ta được an vui tự tại, khi nhắm mắtchúng ta đã chuẩn bị cho đời sau được tốt đẹp hơn nên chúng ta càng vui, khôngcó gì phải buồn sợ.

Cũng như mình đi chiếcxe cũ, lâu quá nó hư mòn, cứ đẩy hoài rất chán. Bây giờ mình dành dụm tiền, bỏxe cũ mua xe mới đẹp hơn. Như vậy buồn hay vui? Nhưng muốn mua xe khác đẹp hơnthì phải chuẩn bị tiền. Chuẩn bị trước rồi mới bỏ xe cũ mua xe mới được. Chớkhông chuẩn bị thì xe cũ bỏ rồi, không biết làm sao mua xe mới. Cho nên ngườibiết tu là người biết lo xa, biết chuẩn bị sẵn; bỏ thân này qua thân khác khỏehơn. Ðó là bước tiến của người tu.

Như vậy chỉ một chữ Xảmà chúng ta được an ổn vui tươi. Cần gì phải nhiều. Một chữ mà biết tu là cảcuộc đời sống thoải mái, an vui. Ngược lại quí vị sẽ thấy mặt mày nhăn nhóhoài, bất mãn cái này, bất mãn cái nọ, bất mãn con cái, bất mãn vợ chồng, bấtmãn xã hội... Mấy chục năm cứ nhăn nhó hoài, uổng một cuộc đời. Cho nên mìnhphải vui tươi xả bỏ, có mấy mươi năm ngắn ngủi, sống làm sao cho thảnh thơi,tạo phước lành để khi nhắm mắt được đến cõi lành, ở đó mà buồn giận làm chi chokhổ.

Vậy mong quí Phật tửnghe hiểu, ứng dụng tu để tất cả chúng ta sống trên thế gian này lúc nào cũngtươi cười, không còn buồn bực. Ðến lúc nhắm mắt ra đi chúng ta cũng vui luôn.Ðó là kết quả tốt đẹp của người Phật tử khéo tu.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
15/05/2021(Xem: 4932)
Không nói được tiếng Tây Tạng và chưa bao giờ dịch tác phẩm nào nhưng Evans-Wentz được biết đến như một dịch giả xuất sắc các văn bản tiếng Tây Tạng quan trọng, đặc biệt là cuốn Tử Thư Tây Tạng ấn bản năm 1927. Đây là cuốn sách đầu tiên về Phật giáo Tây Tạng mà người Tây Phương đặc biệt quan tâm. Ông Roger Corless, giáo sư Tôn Giáo Học tại đại học Duke cho biết: “Ông Evans-Wentz không tự cho mình là dịch giả của tác phẩm này nhưng ông đã vô tình tiết lộ đôi điều chính ông là dịch giả.”
15/05/2021(Xem: 5062)
Ngay sau tác phẩm Mối tơ vương của Huyền Trân Công Chúa, người đọc lại được đón đọc Vua Là Phật - Phật Là Vua của nhà văn Thích Như Điển. Đây là cuốn sách thứ hai về đề tài lịch sử ở thời (kỳ) đầu nhà Trần mà tôi đã được đọc. Có thể nói, đây là giai đoạn xây dựng đất nước, và chống giặc ngoại xâm oanh liệt nhất của lịch sử dân tộc. Cũng như Mối tơ vương của Huyền Trân Công Chúa, tác phẩm Vua Là Phật - Phật Là Vua, nhà văn Thích Như Điển vẫn cho đây là cuốn tiểu thuyết phóng tác lịch sử. Nhưng với tôi, không hẳn như vậy. Bởi, tuy có một số chi tiết, hình ảnh tưởng tượng, song dường như rất ít ngôn ngữ, tính đối thoại của tiểu thuyết, làm cho lời văn chậm. Do đó, tôi nghiêng về phần nghiên cứu, biên khảo, cùng sự liên tưởng một cách khoa học để soi rọi những vấn đề lịch sử bấy lâu còn chìm trong bóng tối của nhà văn thì đúng hơn. Ở đây ngoài thủ pháp trong nghệ thuật văn chương, rõ ràng ta còn thấy giá trị lịch sử và hiện thực thông qua sự nhận định, phân tích rất công phu của
15/05/2021(Xem: 4428)
Ấm ma là hiện tượng hóa ngôn ngữ. Trong kinh Lăng Nghiêm nói đến 50 ấm ma là nói đến biến tướng của nghiệp thức, của các kiết sử thông qua lục căn từng giao tiếp với lục trần trên nền tảng “ sắc-thọ-tưởng-hành-thức”.
15/05/2021(Xem: 4088)
Đọc xong tác phẩm nầy trong một tuần lễ với 362 trang khổ A5, do Ananda Viet Foundation xuất bản năm 2017, Bodhi Media tái xuất bản tại Hoa Kỳ trong năm 2020 và tôi bắt đầu viết về Tác phẩm và Tác giả để gửi đến quý độc giả khắp nơi, nếu ai chưa có duyên đọc đến. Nhận xét chung của tôi là quá hay, quá tuyệt vời ở nhiều phương diện. Phần giới thiệu của Đạo hữu Nguyên Giác gần như là điểm sách về nhiều bài và nhiều chương quan trọng trong sách rồi, nên tôi không lặp lại nữa. Phần lời bạt của Đạo hữu Trần Kiêm Đoàn cũng đã viết rất rõ về sự hình thành của Gia Đình Phật Tử Việt Nam ở trong nước, từ khi thành lập cho đến năm 1975 và Ông Đoàn cũng đã tán dương tuổi trẻ Việt Nam cũng như tinh thần học Phật, tu Phật và vận dụng Phậ
10/05/2021(Xem: 4683)
Chỉ có bốn chữ mà hàm chứa một triết lý thâm sâu ! Chỉ có bốn chữ mà sao chúng sanh vẫn không thực hành được để thoát khỏi sự khổ đau ? Nhưng cũng chỉ bốn chữ này có thể giúp chúng sinh phá được bức màn vô minh, đến được bến bờ giác ngộ, thoát vòng sinh tử !
08/05/2021(Xem: 4148)
Chủ đề bài này là nói về tỉnh thức với tâm không biết. Như thế, nghĩa là những gì rất mực mênh mông, vì cái biết luôn luôn là có hạn, và cái không biết luôn luôn là cái gì của vô cùng tận. Cũng là một cách chúng ta tới với thế giới này như một hài nhi, rất mực ngây thơ với mọi thứ trên đời. Và vì, bài này được viết trong một tỉnh thức với tâm không biết, tác giả không đại diện cho bất kỳ một thẩm quyền nào. Độc giả được mời gọi tự nhìn về thế giới trong và ngoài với một tâm không biết, nơi dứt bặt tất cả những tư lường của vô lượng những ngày hôm qua, nơi vắng lặng tất cả những mưu tính cho vô lượng những ngày mai, và là nơi chảy xiết không gì để nắm giữ của vô lượng khoảnh khắc hôm nay. Khi tỉnh thức với tâm không biết, cả ba thời quá, hiện, vị lai sẽ được hiển lộ ra rỗng rang tịch lặng như thế. Đó cũng là chỗ bà già bán bánh dẫn Kinh Kim Cang ra hỏi ngài Đức Sơn về tâm của ba thời.
04/05/2021(Xem: 3592)
Một khi Đức Đạt Lai Lạt Ma rời Tây Tạng, ngài sẽ phải đối diện với nhiệm vụ khó khăn về việc nói với thế giới những gì đã xảy ra ở quê hương ngài và cố gắng để có được sự giúp đở cho người dân của ngài. Ngài cũng phải chạm trán với sự tuyên truyền của truyền thông Tàu Cộng rằng ngài đã bị bắt cóc. Tuy nhiên, nhu cầu thiết yếu nhất là để bảo đảm nhà ở và thực phẩm cho những người Tây Tạng đã đi theo ngài lưu vong. Ngài đã hướng đến chính phủ Ấn Độ, và họ đã không làm ngài thất vọng. Trong thực tế, Ấn Độ cuối cùng đã tiếp nhận hơn một trăm nghìn người tị nạn, cung cấp chỗ ở, và nuôi dưỡng họ, cho họ làm việc, và thiết lập những ngôi trường đặc biệt cho trẻ em Tây Tạng. Những tu viện Phật giáo Tây Tạng cũng được xây dựng ở Ấn Độ và Nepal.
30/04/2021(Xem: 6866)
Thưa Tôi. Hôm nay là ngày sinh nhật của Tôi, xin được phép thoát ra khỏi cái tôi để nhìn về tôi mà phán xét và đưa ra cảm nghĩ. Hình dạng tôi đã già rồi, tóc đã bạc hết cả đầu. Tôi đã trải qua một thời gian dài sinh sống làm việc và cuối đời nghỉ hưu. Tôi đã bắt đầu thấm thía cái vô thường của thời gian mang lại. Tôi cũng đã thấm thía cái sức khỏe đã đi xuống nhanh hơn đi lên. Tôi cũng đã thấm thía tình đời bạc bẽo cũng như tình cảm (Thọ) là nỗi khổ đau của nhân sinh. Tôi cũng đã hiểu rõ thế nào là ý nghĩa đích thực của cuộc sống, đó là bất khả tương nghị không thể thốt lên thành lời. Chỉ có im lặng là đúng nghĩa nhất. Ngày xưa khi lục tổ Huệ Năng của Thiền tông chạy trốn mang theo y bát thì thượng tọa Minh rượt đuổi theo để giết lấy lại. Đến khi gặp mặt thì lục tổ mang y bát ra để trên tảng đá rồi núp dưới tảng đá bảo thượng tọa Minh hãy lấy y bát đi mà tha chết cho người. Thượng tọa Mình lấy bát lên, nhắc không lên nổi vì nó quá nặng bèn sợ hãi mà quỳ xuống xin lục tổ tha c
30/04/2021(Xem: 6948)
Thiền Uyển Tập Anh chép Đại sư Khuông Việt Ngô Chân Lưu (933 – 1011) tu ở chùa Phật Đà, Thường Lạc nay là chùa Đại Bi núi Vệ Linh Sóc Sơn, Hà Nội. Ngài thuộc thế hệ thứ 4 Thiền phái Vô Ngôn Thông. Ngài người hương Cát Lợi huyện Thường Lạc, nay thuộc huyện Sóc Sơn, Hà Nội, thuộc dòng dõi Ngô Thuận Đế (Ngô Quyền). Theo Phả hệ họ Ngô Việt Nam, Thiền sư Ngô Chân Lưu tên huý là Xương Tỷ, anh trai Thái tử - Sứ quân Ngô Xương Xý, con Thiên Sách Vương Ngô Xương Ngập, cháu đích tôn của Ngô Vương Quyền. Ngài dáng mạo khôi ngô tuấn tú, tánh tình phóng khoáng chí khí cao xa, có duyên với cửa Thiền từ năm 11 tuổi.
27/04/2021(Xem: 5045)
Tánh Không ra đời một thời gian dài sau khi đức Phật Nhập diệt do Bồ tát Long Thọ xiển dương qua Trung Quán Luận. Mặc dầu khi còn tại thế đức Phật có nói về Tánh Không qua kinh A hàm và Nikaya. Nơi đây Phật có nói về tánh xuất gia của hành giả đi tu. Hạng người tâm xuất gia mà thân không xuất gia thì gọi là cư sĩ. Và hạng người tâm và thân xuất gia thì gọi là tỳ kheo. Tánh Không cũng có hiện hữu trong kinh Tiểu không bộ kinh trung bộ. Phật có dạy: nầy Ananda, Ta nhờ ẩn trú Không nên nay ẩn trú rất nhiều. Kế tiếp Phật có dạy trong kinh A hàm về các pháp giả hợp vô thường như những bọt nước trôi trên sông: sự trống không của bọt nước.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]