Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Yêu người không yêu

16/02/201105:11(Xem: 4547)
Yêu người không yêu

SAN SẺ YÊU THƯƠNG
Thái Hồng Minh

Yêu người không yêu

Nếu như lòng yêu thương luôn giúp tâm hồn ta rộng mở, thì sự oán ghét hay thù hận luôn biến ta thành kẻ hẹp hòi, ích kỷ. Nhưng cho dù đó là một sự thật không ai phủ nhận, thì việc mở lòng ra để yêu thương tất cả mọi người quả thật không dễ dàng. Cứ cho là ta có thể sẵn lòng yêu thương tất cả những người mà ta có dịp tiếp xúc, quen biết, nhưng làm thế nào để có thể yêu thương được ngay cả những người không yêu thương ta, hoặc những người mà ta đang mang lòng thù hận, oán ghét?

Sự thật là, có một khuynh hướng vô lý mà hầu hết chúng ta đều mắc phải: Chúng ta thường không hiểu được lý do thực sự dẫn đến sự thù hận hay oán ghét của mình! Bạn có thể chống chế điều này, biện minh bằng cách đưa ra hàng loạt những lý do, những nguyên nhân dẫn đến sự hiềm khích của bạn đối với ai đó... Nhưng nếu bạn bình tâm suy nghĩ lại, phân tích vấn đề một cách khách quan, có thể là chính bạn cũng sẽ ngạc nhiên vì những nguyên nhân bạn đưa ra chưa bao giờ thực sự đầy đủ. Bạn có thể hỏi, vì sao tôi biết được điều đó? Bởi vì chính sự nuôi dưỡng lòng oán hận của bạn là biểu hiện cho thấy bạn chưa hề thấu hiểu nguyên nhân đích thực của vấn đề.

Khi có một sự mâu thuẫn bắt đầu nảy sinh trong quan hệ giữa hai người, thường thì chúng ta nghĩ rằng mình có thể nói ngay được nguyên nhân. Đó có thể là một sự bất đồng ý kiến, hay một hành vi gây tổn thương, thiệt hại... Tuy nhiên, những gì mà chúng ta nhìn thấy được và nêu ra đó lại không phải là nguyên nhân thực sự. Bởi vì chúng ta chỉ ghét giận người khác thông qua cách biểu hiện những hành vi, ngôn ngữ của họ, chứ không phải là vì chính những hành vi, ngôn ngữ đó! Mặt khác, sự giận ghét của chúng ta là một cảm nhận hoàn toàn chủ quan phụ thuộc vào tâm trạng ta lúc đó.

Trong một chừng mực nào đó, chính ý thức chấp ngã, sự bảo vệ “cái tôi”, đã ngăn cản chúng ta mở rộng nhận thức để nhìn toàn bộ sự việc một cách khách quan và trung thực. Sự nhận thức của ta luôn xoay quanh ý niệm bảo vệ chính mình, chống lại mọi sự xúc phạm, phê phán, bất chấp những nhận xét, phê phán của người khác là đúng hay sai. Vì thế, sự chủ quan của ta rất ít khi đúng đắn.

Khi một người bất đồng ý kiến với chúng ta, nhưng nếu biết khéo léo bày tỏ ý kiến bất đồng đó một cách ôn hòa kèm theo sự tôn trọng cần thiết, chắc chắn sẽ không thể làm cho ta ghét giận. Nhưng đa số mọi người thường không làm như vậy. Khi đưa ra một ý kiến bất đồng, họ thường có khuynh hướng kèm theo đó một thái độ đối kháng, thậm chí còn là bác bỏ, phủ nhận người khác. Điều đó tạo một phản ứng tiêu cực trong sự tiếp thu của người đối diện. Và chính đây mới là nguyên nhân dẫn đến sự mâu thuẫn, hiềm khích giữa đôi bên.

Ngay cả khi ai đó đã có hành vi gây ra sự tổn thương, thiệt hại cho bạn, nhưng nếu cách làm của họ cho thấy là họ đã không cố ý như vậy, hoặc có một sự hối tiếc chân thành, điều đó cũng thường không đáng để tạo ra sự mâu thuẫn, hiềm khích.

Vì thế, khi có một trường hợp mâu thuẫn nảy sinh thì có đến chín phần mười nguyên nhân thực sự nằm về phía bản thân chúng ta, và chỉ có một phần mười còn lại nằm về phía đối phương. Bởi vì sự giận ghét của ta là do nơi nhận thức chủ quan về đối tượng chứ không phải do nơi bản thân những hành vi, ngôn ngữ của người ấy. Như vậy, chính ta mới là người có khả năng kiểm soát và quyết định việc mâu thuẫn ấy có tồn tại và phát triển trong ta hay không. Ngay cả khi đối phương vẫn muốn đơn phương giữ lấy sự hiềm khích, thì sự buông xả của chúng ta bao giờ cũng có tác dụng hóa giải dần dần sự hiềm khích ấy.

Điều không may là hầu hết chúng ta không nhận biết như vậy, và luôn có khuynh hướng hành xử theo với thái độ của người đang nắm giữ chỉ có một phần mười khả năng kiểm soát sự việc! Và rồi chúng ta đổ lỗi cho hoàn cảnh, cho người khác... nhưng chẳng bao giờ nhận ra rằng phần quyết định luôn ở nơi chính mình.

Tính chất thụ động này biểu hiện rõ nét ở điểm là ta luôn phụ thuộc vào đối phương. Nếu đó là một người “biết điều”, xử xự một cách khéo léo, ta sẽ dễ dàng vui vẻ bỏ qua mọi việc, và sự mâu thuẫn sẽ bị dập tắt ngay từ đầu. Ngược lại, nếu gặp phải một người thô lỗ, thiếu tôn trọng, ta sẽ luôn có thái độ đối nghịch và có khuynh hướng làm cho vấn đề trở nên nghiêm trọng hơn, khiến cho mâu thuẫn tất yếu phải nảy sinh và phát triển. Điều này cho thấy là thật ra ta chẳng hề tự quyết được thái độ của mình, mà luôn hành xử theo cách phụ thuộc vào thái độ của người khác.

Nếu nhận hiểu được vấn đề, chúng ta sẽ có thể sẵn lòng làm một người “biết điều” để chủ động hóa giải sự việc, thay vì chờ đợi một thái độ ứng xử tốt đẹp từ người khác. Quyền kiểm soát thái độ của bản thân mình luôn nằm ở chính ta. Vì thế, nếu chúng ta thực sự không muốn cho mâu thuẫn phát sinh thì đối phương cũng không thể thay đổi được điều đó.

Những nguyên nhân gây ra sự oán ghét, thù hận của chúng ta đối với ai đó luôn nằm về phía ta nhiều hơn là người đó. Nếu ta thấy một người nào đó là “đáng ghét”, thì đó là sự nhận xét hoàn toàn chủ quan của ta, và vì thế ta hoàn toàn có khả năng thay đổi được nhận xét ấy. Nếu hiểu được như vậy, bạn sẽ thấy không còn có ai là người đáng ghét cả, bởi vì ghét một người bao giờ cũng có hại cho ta, trong khi yêu thương một người luôn mở rộng thêm khả năng đón nhận niềm vui vào cuộc sống.

 




Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
07/01/2021(Xem: 5555)
Một khuôn mặt trong một tấm gương xuất hiện là một khuôn mặt, nhưng thế nào đi nữa hình ảnh đấy không là một khuôn mặt thật sự; đấy là từ những quan điểm trống rỗng về sự hiện hữu của một khuôn mặt. Giống như thế, một nhà huyển thuật có thể gợi lên những ảo ảnh dường như là những thứ thật sự. như một người ở trong một cái thùng bị xiên bởi một cây gươm, nhưng tất cả hoàn toàn không được tạo ra thật sự như những thứ được thấy. Tương tự thế, các hiện tượng như thân thể hiện diện được tạo ra từ chính phía của đối tượng nhưng trống rỗng trong việc được thiết lập cách ấy và luôn luôn như thế.
04/01/2021(Xem: 5466)
Đức Đạt Lai Lạt Ma đưa ra nhận xét chính thức đầu tiên về việc nghỉ hưu, từ các trách nhiệm chính trị trong một buổi giảng dạy công khai tại Tsuglagkhang, Dharamshala, ngày 19 tháng 3 năm 2011. Năm 1963, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã ban hành một Hiến pháp Dân chủ (democratic constitution) hoàn toàn dựa trên Giới luật Phật giáo, và bản Hiến chương Nhân quyền của Liên Hợp Quốc để biên soạn, và chuẩn bị cho một mô hình đất nước Tây Tạng tự do ở tương lai:
04/01/2021(Xem: 6869)
Ngày Xuân ngày Tết, nếu ai tìm những giờ phút thanh thản yên tịnh bằng những bước nhẹ nhàng khoan thai vào vãng cảnh các chùa chiền tự viện, dâng hương bái Phật, nếu để ý sẽ thấy ở một vách tường nào đó treo bộ tranh mang tên gọi là “Thập mục ngưu đồ”. Không phải chốn già lam thiền viện nào cũng có trưng treo, vì đó không phải là điều bắt buộc thuộc thanh quy giới luật, nhiều khi chỉ được treo để trang trí, hay được trưng ra ở một nơi hằng ngày đi qua đi lại như để nhắc nhở, vậy nếu khi ta bắt gặp được tức là ta đang hữu duyên, hãy đừng bỏ dịp đứng trước bộ tranh mang những nét sơ sài ấy để ngắm từng bức mà chiêm nghiệm nghiền ngẫm.
04/01/2021(Xem: 4251)
Phật Vàng (Golden Buddha) có tên chính thức trong tiếng Thái là “Phra Phuttha Maha Suwana Patimakon”, nặng 5,5 tấn. Sau nhiều lần di chuyển, pho tượng hiện đang nằm trong đền thờ Wat Traimit, Bangkok, Thái Lan. Hiện tại, mặc dù các học giả vẫn chưa xác định chắc chắn nguồn gốc của pho tượng là bắt nguồn từ thời gian nào. Nhưng dựa theo cấu trúc của phần đầu bức tượng (hình quả trứng), thì có thể đoán rằng, nó ra đời vào dưới triều Sukhothai vào thế kỷ 13 – 14 – một trong những giai đoạn nổi tiếng nhất của nghệ thuật kiến trúc Phật giáo Thái Lan.
03/01/2021(Xem: 9078)
Một Số Danh Tăng Việt Nam Tuổi Sửu Thiền sư TRÌ BÁT (Kỷ Sửu 1049) Thiền sư TỊNH THIỀN (Tân Sửu 1121) Hoà thượng THÍCH ĐẠT THANH (Quý Sửu 1853) Hoà thượng THÍCH GIÁC NHIÊN (Đinh Sửu 1877) Thiền sư THÍCH CHƠN PHỔ - THUBTEN OSALL LAMA (Kỷ Sửu 1889) Hoà thượng THÍCH BỬU LAI (Tân Sửu 1901) Hoà thượng THÍCH THIÊN ÂN (Ất Sửu 1925) Hoà thượng THÍCH MINH THÀNH (Đinh Sửu 1937)
03/01/2021(Xem: 5420)
“Con trâu là đầu cơ nghiệp”. Với một nước nông nghiệp như nước ta, hình ảnh con trâu nặng nề lầm lũi, kềnh càng cục mịch luôn gắn bó với những cánh đồng thửa ruộng, thân thiết với bao người nông dân chân lấm tay bùn, và gần gũi với lũ trẻ mục đồng thường nghêu ngao bài hát quen thuộc “Ai bảo chăn trâu là khổ, chăn trâu sướng lắm chứ!”… Không chỉ như thế, trâu cũng đã từng gắn bó với cuộc đời một vài danh nhân lịch sử như Đinh Bộ Lĩnh, Đào Duy Từ… Đối với nền văn học nước nhà, con trâu còn có cái công rất lớn trong việc làm phong phú ngôn ngữ, nhất là trong ca dao- đồng dao-tục ngữ.
01/01/2021(Xem: 5046)
Từ lâu các kinh sách Phật Giáo Việt Nam bị ảnh hưởng bởi ngôn ngữ âm Hán Việt của Trung Quốc. Từ những được chư tôn thiền đức Tăng Ni chuyển qua quốc ngữ tiếng Việt, để Phật tử dễ đọc, nhất là những vị chưa có kiến thức về âm Hán Việt. thế kỷ 20 (năm 2000 trở đi) các kinh sách dần dần đã Người biên soạn xuất gia tại Chùa Liên Hoa, Bình Thạnh, với Tôn Sư Hải Triều Âm, các kinh sách trong Chùa tụng bằng tiếng Việt do Tôn sư chuyển ngữ. Từ năm 2005 trở đi, người biên soạn định cư và hoằng pháp tại Hoa Kỳ. Nhiều Chùa ở Hoa Kỳ vẫn còn tụng kinh bằng âm Hán Việt và nhiều nơi phải tụng bằng tiếng Anh cho người bản địa và thế hệ con cháu thứ hai sanh tại Mỹ có thể tụng hiểu được. Phật tử Việt tụng kinh bằng tiếng Việt mà vẫn chưa hiểu được ý nghĩa ẩn sâu trong lời kinh và càng bối rối hơn khi tụng kinh bằng bằng âm Hán Việt. Đó là lý do thúc đẩy, chùa Hương Sen biên soạn một cuốn “NGHI LỄ HÀNG NGÀY” bằng tiếng Việt và tổng hợp gần 50 bài kinh:
01/01/2021(Xem: 5634)
Trong kho tàng văn học của Việt Nam và Phật Giáo, Trần Thái Tông (1225 - 1258) đã có những đóng góp vô cùng to lớn và giá trị, những sáng tác của Ngài, bất hủ qua dòng thời gian, tỏa sáng lồng lộng trên bầu trời Dân Tộc và Đạo Pháp. Trần Thái Tông được kể như một vị Thiền sư cư sĩ vĩ đại, nhà thiền học uyên thâm, thành tựu sự nghiệp giác ngộ. Một vị vua anh minh dũng lược, chiến thắng quân Nguyên Mông giữ gìn bờ cõi, đem lại cường thịnh ấm no cho dân cho nước, đã để lại tấm lòng cao quý thương yêu đời đạo, lưu lại di sản trí tuệ siêu thoát cho hậu thế noi theo.
29/12/2020(Xem: 6136)
Tịch tĩnh bất động hay định lực có thể đè nén những cảm xúc chướng ngại ẩn tàng, nhưng nó không thể loại trừ hoàn toàn chúng. Tuệ giác nội quán là cần thiết bởi vì như được giải thích trước đây, nó có thể loại trừ hoàn toàn những cảm xúc phiền phức và những rối rắm hậu quả của chúng. Thiền ổn định (chỉ) và thiền phân tích (quán) bây giờ phải làm việc với nhau. Khi chúng thể hiện chức năng cách này, chúng có thể nhổ gốc những cảm xúc phiền phức và loại trừ những giới hạn của thông tuệ vì thế chúng ta có thể hoàn thành mục tiêu tối hậu của việc giúp đở những kẻ khác một cách hiệu quả hơn.
29/12/2020(Xem: 5155)
Thơ thiền Nhật bản là cả một thế giới thi ca độc đáo, tiêu biểu cho tư tưởng và chủ trương tu tập của thiền học Zen, nhất là qua một thể thơ cực ngắn gọi là haiku. Điểm đáng lưu ý và cần nêu lên trước nhất là thơ thiền Nhật bản khác hẳn với thơ Đường của Trung quốc. Một số học giả, kể cả các học giả Tây phương, dường như đôi khi không nhận thấy được sự khác biệt này khi mang ra phân tích và tìm hiểu tinh thần Phật giáo chung cho cả hai thế giới thi ca trên đây.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]