Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Yêu người không yêu

16/02/201105:11(Xem: 4638)
Yêu người không yêu

SAN SẺ YÊU THƯƠNG
Thái Hồng Minh

Yêu người không yêu

Nếu như lòng yêu thương luôn giúp tâm hồn ta rộng mở, thì sự oán ghét hay thù hận luôn biến ta thành kẻ hẹp hòi, ích kỷ. Nhưng cho dù đó là một sự thật không ai phủ nhận, thì việc mở lòng ra để yêu thương tất cả mọi người quả thật không dễ dàng. Cứ cho là ta có thể sẵn lòng yêu thương tất cả những người mà ta có dịp tiếp xúc, quen biết, nhưng làm thế nào để có thể yêu thương được ngay cả những người không yêu thương ta, hoặc những người mà ta đang mang lòng thù hận, oán ghét?

Sự thật là, có một khuynh hướng vô lý mà hầu hết chúng ta đều mắc phải: Chúng ta thường không hiểu được lý do thực sự dẫn đến sự thù hận hay oán ghét của mình! Bạn có thể chống chế điều này, biện minh bằng cách đưa ra hàng loạt những lý do, những nguyên nhân dẫn đến sự hiềm khích của bạn đối với ai đó... Nhưng nếu bạn bình tâm suy nghĩ lại, phân tích vấn đề một cách khách quan, có thể là chính bạn cũng sẽ ngạc nhiên vì những nguyên nhân bạn đưa ra chưa bao giờ thực sự đầy đủ. Bạn có thể hỏi, vì sao tôi biết được điều đó? Bởi vì chính sự nuôi dưỡng lòng oán hận của bạn là biểu hiện cho thấy bạn chưa hề thấu hiểu nguyên nhân đích thực của vấn đề.

Khi có một sự mâu thuẫn bắt đầu nảy sinh trong quan hệ giữa hai người, thường thì chúng ta nghĩ rằng mình có thể nói ngay được nguyên nhân. Đó có thể là một sự bất đồng ý kiến, hay một hành vi gây tổn thương, thiệt hại... Tuy nhiên, những gì mà chúng ta nhìn thấy được và nêu ra đó lại không phải là nguyên nhân thực sự. Bởi vì chúng ta chỉ ghét giận người khác thông qua cách biểu hiện những hành vi, ngôn ngữ của họ, chứ không phải là vì chính những hành vi, ngôn ngữ đó! Mặt khác, sự giận ghét của chúng ta là một cảm nhận hoàn toàn chủ quan phụ thuộc vào tâm trạng ta lúc đó.

Trong một chừng mực nào đó, chính ý thức chấp ngã, sự bảo vệ “cái tôi”, đã ngăn cản chúng ta mở rộng nhận thức để nhìn toàn bộ sự việc một cách khách quan và trung thực. Sự nhận thức của ta luôn xoay quanh ý niệm bảo vệ chính mình, chống lại mọi sự xúc phạm, phê phán, bất chấp những nhận xét, phê phán của người khác là đúng hay sai. Vì thế, sự chủ quan của ta rất ít khi đúng đắn.

Khi một người bất đồng ý kiến với chúng ta, nhưng nếu biết khéo léo bày tỏ ý kiến bất đồng đó một cách ôn hòa kèm theo sự tôn trọng cần thiết, chắc chắn sẽ không thể làm cho ta ghét giận. Nhưng đa số mọi người thường không làm như vậy. Khi đưa ra một ý kiến bất đồng, họ thường có khuynh hướng kèm theo đó một thái độ đối kháng, thậm chí còn là bác bỏ, phủ nhận người khác. Điều đó tạo một phản ứng tiêu cực trong sự tiếp thu của người đối diện. Và chính đây mới là nguyên nhân dẫn đến sự mâu thuẫn, hiềm khích giữa đôi bên.

Ngay cả khi ai đó đã có hành vi gây ra sự tổn thương, thiệt hại cho bạn, nhưng nếu cách làm của họ cho thấy là họ đã không cố ý như vậy, hoặc có một sự hối tiếc chân thành, điều đó cũng thường không đáng để tạo ra sự mâu thuẫn, hiềm khích.

Vì thế, khi có một trường hợp mâu thuẫn nảy sinh thì có đến chín phần mười nguyên nhân thực sự nằm về phía bản thân chúng ta, và chỉ có một phần mười còn lại nằm về phía đối phương. Bởi vì sự giận ghét của ta là do nơi nhận thức chủ quan về đối tượng chứ không phải do nơi bản thân những hành vi, ngôn ngữ của người ấy. Như vậy, chính ta mới là người có khả năng kiểm soát và quyết định việc mâu thuẫn ấy có tồn tại và phát triển trong ta hay không. Ngay cả khi đối phương vẫn muốn đơn phương giữ lấy sự hiềm khích, thì sự buông xả của chúng ta bao giờ cũng có tác dụng hóa giải dần dần sự hiềm khích ấy.

Điều không may là hầu hết chúng ta không nhận biết như vậy, và luôn có khuynh hướng hành xử theo với thái độ của người đang nắm giữ chỉ có một phần mười khả năng kiểm soát sự việc! Và rồi chúng ta đổ lỗi cho hoàn cảnh, cho người khác... nhưng chẳng bao giờ nhận ra rằng phần quyết định luôn ở nơi chính mình.

Tính chất thụ động này biểu hiện rõ nét ở điểm là ta luôn phụ thuộc vào đối phương. Nếu đó là một người “biết điều”, xử xự một cách khéo léo, ta sẽ dễ dàng vui vẻ bỏ qua mọi việc, và sự mâu thuẫn sẽ bị dập tắt ngay từ đầu. Ngược lại, nếu gặp phải một người thô lỗ, thiếu tôn trọng, ta sẽ luôn có thái độ đối nghịch và có khuynh hướng làm cho vấn đề trở nên nghiêm trọng hơn, khiến cho mâu thuẫn tất yếu phải nảy sinh và phát triển. Điều này cho thấy là thật ra ta chẳng hề tự quyết được thái độ của mình, mà luôn hành xử theo cách phụ thuộc vào thái độ của người khác.

Nếu nhận hiểu được vấn đề, chúng ta sẽ có thể sẵn lòng làm một người “biết điều” để chủ động hóa giải sự việc, thay vì chờ đợi một thái độ ứng xử tốt đẹp từ người khác. Quyền kiểm soát thái độ của bản thân mình luôn nằm ở chính ta. Vì thế, nếu chúng ta thực sự không muốn cho mâu thuẫn phát sinh thì đối phương cũng không thể thay đổi được điều đó.

Những nguyên nhân gây ra sự oán ghét, thù hận của chúng ta đối với ai đó luôn nằm về phía ta nhiều hơn là người đó. Nếu ta thấy một người nào đó là “đáng ghét”, thì đó là sự nhận xét hoàn toàn chủ quan của ta, và vì thế ta hoàn toàn có khả năng thay đổi được nhận xét ấy. Nếu hiểu được như vậy, bạn sẽ thấy không còn có ai là người đáng ghét cả, bởi vì ghét một người bao giờ cũng có hại cho ta, trong khi yêu thương một người luôn mở rộng thêm khả năng đón nhận niềm vui vào cuộc sống.

 




Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
21/10/2014(Xem: 6520)
Đối với người đời, không có phước đức nào lớn cho bằng vợ đẹp, con khôn, của cải đầy kho, quyền thế, danh vọng, ăn ngon mặc đẹp… Thế nhưng bạn ơi, -Biết bao nhiêu ông thủ tướng, tổng bộ trưởng bị tù đày vì tham nhũng, gian trá, lạm quyền…thậm chí buôn lậu, dâm ô. Biết bao nhiêu ông tổng thống bị ám sát, lật đổ cũng chỉ vì tranh giành quyền lực. -Ông bố đốt tờ giấy bạc mà người nghèo có thể mua bao gạo để tìm một món đồ cho cô đào cải lương đánh rơi trong phòng trà…vài chục năm sau ông con lại sống như kẻ ăn mày. -Ông bố cặm cụi làm việc suốt đời tao dựng gia tài khổng lồ. Ông con trở thành “công tử” ăn chơi phung phí, bao gái, đua đòi, ném tiền qua của sổ…chẳng mấy chốc phá nát sự nghiệp của cha ông.
20/10/2014(Xem: 21315)
Đây là một trong những câu hỏi mà phóng viên tờ Mandala đã phỏng vấn bác sĩ Alan Molloy, một thành viên lâu năm của Viện Phật học Tara ở tiểu bang Melbourne, Úc, một người đã chứng kiến sự phát triển của đạo Phật tại quốc gia này từ cuối thập niên bảy mươi đến nay.
20/10/2014(Xem: 7306)
Là tín đồ Phật giáo từ năm mười bảy tuổi, đạo hữu luật sư Christmas Humphreys (1901-1983) không thuộc bất cứ một giáo phái nào của Phật giáo. Ông tin vào Phật giáo thế giới, và ông nghĩ rằng: “chỉ trong sự phối hợp của tất cả các tông phái người ta mới có thể thấy trọn vẹn sự vĩ đại của tư tưởng Phật giáo” (only in a combination of all schools can the full grandeur of Buddhist thought be found). Để làm cho quan điểm của mình được Phật tử trên thế giới chấp nhận, ông đã trình bày Mười hai nguyên tắc của Phật giáo (Twelve Principles of Buddhism) nổi tiếng của mình vào năm 1945, được dịch ra 14 thứ tiếng và được nhiều tông phái Phật giáo trên thế giới chấp nhận. Mười hai nguyên tắc ấy có điều giống với Mười Bốn Nguyên Tắc của Đại Tá Olcott giới thiệu trong tác phẩm Phật pháp vấn đáp (Buddhist Catechism) của ông, được xuất bản vào cuối thế kỷ thứ 19.
17/10/2014(Xem: 6903)
Bài viết “Phật trên hè phố Oakland” của nhà báo Trần Khải, tiếp tục được tải truyền rộng rãi trên các website. Bài viết ghi lại đại cương sự kiện phóng viên Chip Johnson kể lại trên báo SFGate.com về một pho tượng Phật đã đem lại sự bình an, sạch sẽ cho một khu phố nhiều tội ác và rác rưởi trước đây. Chi tiết đặc biệt đã thu hút người đọc, là pho tượng Phật Thích Ca bằng đá, chỉ cao khoảng 2 feet, được đặt ở góc đường 11 và đường 19, trong khu Eastlake, thành phố Oakland , là do một người vô thần, tình cờ nhìn thấy tại một tiệm bán vật liệu xây cất.
16/10/2014(Xem: 13779)
Niệm Phật là một pháp môn dễ hành nhưng khó tin, nhất là trong thời đại điện toán này, thời đại mà con người lo cho vật chất nhiều hơn là lo cho đời sống tâm linh. Tuy nhiên theo lời Phật dạy, Phật từ tâm, tâm sinh Phật, để đưa đến giải thoát giác ngộ. Do đó nếu đã là Phật tử rồi thì nhất định phải tin lời Phật dạy, hơn nữa Kinh Hoa Nghiêm còn nói: “niềm tin là mẹ của công đức”.
14/10/2014(Xem: 8846)
Bạn chưa từng ghé thăm mà không gọi trước. Vậy mà lần này, mở cửa, chưa nhìn thấy người đã thấy hoa và trái. Mấy bó cúc đại đóa vàng tươi che kín mặt, chưa đủ, tay kia còn chĩu nặng một giỏ, vừa hồng dòn, vừa soài xanh, mận chín. Tôi toan đỡ một thứ, bạn đã bước nhanh qua cửa, đi thẳng vào bếp, đặt quà xuống, và líu lo: - Hên ghê, mình vừa đến tiệm là xe chở hoa và trái cây phân phối các chợ cũng vừa tới. Xem này, thiệt là tươi. Mình mua ngay. Khách hàng đầu tiên đấy!
14/10/2014(Xem: 8146)
Con đường ấy, khởi bước, ngỡ không mấy khó và chắc cũng chẳng có chi dài, vì nương theo sự chỉ bảo của các vị Đạo Sư, các bậc thiện tri thức giảng giải lời Phật dạy, thì sự giải thoát, giác ngộ có bao xa! Tùy căn cơ người nghe, lời giảng dạy chỉ gom về một mối, là muôn kinh, vạn kệ, hằng hà pháp môn cũng chỉ để giúp ta nhận ra, rằng mỗi chúng sanh đều có Phật Tánh sáng chói như nhau, nhưng nếu không thấy, chỉ bởi vô minh che lấp mà thôi. Nhận ra, và xóa sạch được bụi vô minh thì chúng sanh “sẽ thành Phật” đó, lập tức là “Phật đã thành”.
14/10/2014(Xem: 8443)
Mỗi tuần, tôi có một ngày để làm hai việc tuyệt vời. Đó là, thứ nhất: làm thinh, thứ hai: không làm gì cả! Hôm nay đang là phút giây tuyệt vời đó. Sau những ngày lạnh bất thường, nắng sáng nay rất đẹp, vàng óng và ấm áp. Cây cỏ hoa lá rộ lên niềm vui. Mọi cánh cửa mở rộng để nắng ghé vào, mang hương thơm của đất trời chuyển hóa. Không mùi hương nhân tạo nào so sánh được với hương gió núi mây ngàn. Ít nhất, chủ quan tôi như thế.
14/10/2014(Xem: 7265)
Từ Tào-Khê tịnh thất lên ngôi chùa hoang vắng nằm sâu trong rừng thông miền đông bắc Hoa Kỳ, hành trang tôi đã nhẹ. Rồi từ ngôi chùa hoang vắng đó về lại tịnh thất, hành trang lại càng nhẹ tênh! Cái giầu có nhất trong gia tài tôi, chỉ là kinh và sách, nhưng sau chuyến “lên rừng độc cư”, nay từ ba kệ lớn, chỉ còn một kệ nhỏ, khi thực hiện lời phát nguyện “Tặng hết những gì có, tới những ai ngỏ lời xin” (trừ những cuốn có chữ ký và thủ bút của Thầy Tuệ Sỹ)
13/10/2014(Xem: 8359)
Tôi lặng người nhìn bức hình Tuệ Sỹ, vẫn gương mặt xương xẩu, vẫn đôi má lỏm sâu, vẫn cặp mắt rực sáng, vẫn gầy còm, chỉ là tóc đã bạc màu, y vàng nghiêm trang, kính cẩn cầm ba nén hương to, quì trước bàn thờ với bức ảnh hiền từ với nụ cười an lạc của Ôn. Ai nghe tin Ôn thị tịch cũng xúc động, cũng phải bái lễ, thọ tang. Thấy Thầy Như Minh từ Los cũng bay về, gương mặt buồn rầu như đang khóc tang. Chú cũng thuộc hàng hậu học, cũng tôn kính Ôn là bậc trưởng thượng, có gì lạ đâu. Chẳng có gì đặc biệt. Nhưng nếu có ai để ý, từ sau 1973, Chú không hề đặt chân lần nào nữa đến Vạn Hạnh, bấy giờ đã dọn về đường Trương Minh Giảng, chỉ trụ ở Già Lam, trên lầu, chia phòng với chú Dũng,[1] thì mới có thể hiểu được ý nghĩa của tấm hình này.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]