Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Vật chất và tinh thần

16/02/201105:11(Xem: 4767)
Vật chất và tinh thần

SAN SẺ YÊU THƯƠNG
Thái Hồng Minh

Vật chất và tinh thần

Cuộc sống của mỗi chúng ta đều tồn tại nhờ vào sự kết hợp của hai giá trị vật chất và tinh thần. Tuy nhiên, có một khuynh hướng sai lầm rất phổ biến là không thấy được sự gắn bó và tương quan giữa hai giá trị này. Chính vì thế, đôi khi chúng ta quá xem trọng yếu tố vật chất, lại có đôi khi quá đặt nặng về mặt tinh thần. Nhưng sự kết hợp hài hòa giữa hai yếu tố này lại chính là nền tảng thiết yếu nhất để có được một cuộc sống an vui, hạnh phúc.

Khuynh hướng sai lầm này thật ra đã có mặt cùng với loài người từ rất xa xưa. Nhiều nhà hiền triết thời cổ đại được kể lại là đã chọn cách sống khắc khổ, xa rời mọi tiện nghi đời sống và không bao giờ thỏa mãn những nhu cầu vật chất của bản thân mình. Họ làm như thế vì tin rằng nhờ đó mà sẽ có được một đời sống tinh thần tốt đẹp hơn. Chính đức Phật Thích-ca trước khi thành đạo cũng đã từng trải qua 6 năm đi theo con đường khổ hạnh, hạn chế tối đa mọi nhu cầu vật chất. Nhưng sau đó ngài đã nhận ra sự sai lầm này và tìm ra hướng đi đúng đắn để đạt được sự giác ngộ. Và vì thế, con đường do ngài chỉ dạy là con đường duy nhất dẫn đến một đời sống thực sự an vui và hạnh phúc.

Mặt khác, quanh ta luôn có rất nhiều những con người chạy theo các giá trị vật chất. Đôi khi, nhìn vào cách sống của họ ta có cảm giác rằng chính những giá trị vật chất là tất cả những gì họ có. Họ tích lũy tiền bạc, của cải để trở nên giàu có, sung túc. Họ lao vào hưởng thụ những khoái lạc của đời sống, bất chấp mọi nguyên tắc đạo đức, luân lý. Họ sử dụng những giá trị vật chất có được để cố đổi lấy niềm vui trong cuộc sống, vì họ tin rằng đó là cách duy nhất để họ có thể làm được điều đó. Nhưng hầu hết những người như thế sớm muộn gì rồi cũng sẽ nhận ra sai lầm của mình. Bởi vì họ không bao giờ có thể thực sự có được niềm vui sống. Cái mà họ có được chỉ là những khoảnh khắc thỏa mãn thoáng qua, tạo cảm giác hài lòng trong phút chốc, nhưng kèm theo đó bao giờ cũng là vô số những hệ lụy khổ đau.

Sự thật là những giá trị vật chất và tinh thần vốn dĩ không bao giờ có thể tách rời nhau như hai phạm trù riêng biệt. Vật chất có được giá trị của nó phụ thuộc vào tinh thần, và các giá trị tinh thần bao giờ cũng chỉ tồn tại trên cơ sở những biểu hiện vật chất nhất định. Cái đẹp của một bức tranh không chỉ hoàn toàn do nơi những đường nét, màu sắc trong tự thân nó, mà còn tùy thuộc vào nhận thức, năng lực thẩm mỹ và thậm chí cả trạng thái tinh thần của người ngắm tranh.

Những niềm vui, nỗi buồn, sự thương yêu hay oán ghét, kính trọng hay khinh miệt... nảy sinh trong lòng ta là do nơi phản ứng của ta trước những biểu hiện vật chất mà ta tiếp xúc. Ngay cả tâm trạng của ta trong một lúc nào đó cũng luôn có sự phụ thuộc nhất định vào các yếu tố vật chất của môi trường bao quanh. Ngược lại, khi lòng ta đang tràn ngập một cảm xúc mạnh mẽ nào đó thì toàn bộ thế giới vật chất chung quanh đều sẽ thay đổi trong nhận thức của ta, như thi hào Nguyễn Du đã từng viết: “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ.”

Vì thế, việc tách rời hoặc đối lập các giá trị vật chất và tinh thần là một nhận thức sai lầm, không đúng thật. Và vì đó là một nhận thức sai lầm nên chúng ta chẳng bao giờ có thể dựa vào đó để có được một thái độ sống đúng đắn dẫn đến niềm vui và hạnh phúc.

Thái độ của chúng ta trong cuộc sống phụ thuộc vào nhận thức, nên khi nhận thức sai lầm phân biệt giữa các giá trị tinh thần và vật chất thì đồng thời chúng ta cũng nảy sinh thái độ chọn lựa, thiên lệch. Sự phán đoán của ta về những giá trị được, mất trong cuộc đời cũng dựa trên thái độ chọn lựa, thiên lệch đó. Khi tài sản tích lũy của ta gia tăng, ta cho rằng đó là được, nhưng thường không cân nhắc đến những giá trị tinh thần có thể đã suy giảm đi vì những hành động không chính đáng khi ta cố giành lấy những giá trị vật chất ấy từ người khác.

Lịch sử Trung Hoa ghi lại việc vua Đường Thái Tông là Lý Thế Dân ngay khi vừa lên ngôi đã giết hai người anh là Kiến Thành và Nguyên Cát để củng cố ngôi vua của mình. Hẳn nhiên ông ta cho rằng việc ngồi vững trên ngôi vua là một cái được, nhưng lại không biết rằng việc ra tay giết hại cả hai người anh ruột để đạt mục đích ấy là một cái mất quá lớn lao!

Lịch sử Việt Nam ghi nhận một trường hợp ứng xử hoàn toàn ngược lại. Khi vua Lý Thái Tổ vừa băng hà vào năm 1028, thái tử Phật Mã (tức vua Lý Thái Tông sau này) còn chưa kịp lên ngôi thì ba vị hoàng tử là Đông Chinh Vương, Dực Thánh Vương và Vũ Đức Vương cùng nhau làm phản, muốn giết thái tử. Nhờ sự giúp sức của dũng tướng Lê Phụng Hiểu cùng sự tận trung của triều thần và tướng sĩ, cuộc nổi loạn được dẹp yên. Vũ Đức Vương bị Lê Phụng Hiểu chém chết ngay giữa trận, Đông Chinh Vương và Dực Thánh Vương đều bị bắt giam. Dù vậy, ngay sau khi lên ngôi, vua Lý Thái Tông đã ban lệnh đại xá cho tội nhân khắp nước, và tha thứ cả tội phản loạn của hai người em, lại cho phục hồi chức tước như cũ. Bằng cách ứng xử này, rõ ràng là vua Lý Thái Tông đã có một nhận thức hoàn toàn khác biệt so với vua Đường Thái Tông. Và điều này cũng tiếp tục được thể hiện trong suốt những năm trị vì của ông vua nhân ái này.

Trong cuộc sống hằng ngày, có rất nhiều việc mà sự chọn lựa ứng xử của chúng ta luôn phụ thuộc vào khái niệm được hay mất. Khi buông bỏ một giá trị vật chất, chúng ta thường cho là mất, nhưng kỳ thật còn phải cân nhắc mục đích của sự buông bỏ ấy như thế nào mới có thể xác định đó là được hay mất. Khi có thêm một phần giá trị vật chất, chúng ta thường cho là được, nhưng kỳ thật cũng cần xét đến những giá trị tinh thần tương quan mới có thể xác định đó là được hay mất. Và chỉ khi nhận thức đúng về sự được, mất trong cuộc sống thì chúng ta mới có thể có một cuộc sống an vui và thực sự có ý nghĩa.

Người xưa nói: “Làm người giàu sang thì đánh mất nhân nghĩa.” (Vi phú bất nhân.) Thật ra, câu nói ấy chỉ đúng khi sự giàu có được tạo ra bằng những thủ đoạn gian trá và sự áp bức, bóc lột người khác. Ngày nay, có rất nhiều người làm giàu một cách chính đáng bằng tài năng và công sức của chính họ, những người ấy không hề đánh mất nhân nghĩa.

Vì vậy, câu nói trên cũng có thể xem là đã phản ánh phần nào thái độ cực đoan trong sự lựa chọn giữa các giá trị vật chất và tinh thần. Ở đây, chúng ta thấy rõ sự đối nghịch và loại trừ nhau giữa hai giá trị, trong khi thực tế là chúng cần phải được nhìn nhận trong mối tương quan gắn bó không tách rời. Vì thế, có thể nói rằng sự nhận biết và thay đổi quan điểm sai lầm này là một điều rất quan trọng và cũng không phải dễ dàng.

Thật ra, với bản năng yêu thương sẵn có, mỗi người chúng ta đều muốn làm những điều tốt đẹp cho người khác, đều muốn giúp đỡ những người khốn khó. Nhưng chính ý tưởng không muốn mất đi các giá trị vật chất nhiều khi đã ngăn cản chúng ta làm những việc tốt đẹp như thế. Nếu thấy được mối tương quan giữa vật chất và tinh thần, chúng ta sẽ thấy rằng việc sử dụng đúng đắn một phần giá trị vật chất nào đó để làm được những điều tốt đẹp không bao giờ là mất đi, vì nó luôn mang lại cho chúng ta những giá trị tinh thần nhiều lần hơn thế nữa.

Điều này không hề mang tính triết lý suông, mà là một thực tế, nhưng cần đến sự sáng suốt, tinh tế mới có thể nhận ra được. Khi bạn có thể làm được những điều tốt đẹp thuận theo bản năng yêu thương của mình, bạn sẽ có được nhiều niềm vui và nghị lực trong cuộc sống. Vì thế, điều chắc chắn là bạn sẽ có được sự sáng suốt và nguồn cảm hứng tốt hơn trong mọi công việc. Và điều này sẽ mang lại cho bạn những kết quả tốt đẹp hơn, những giá trị vật chất lớn lao hơn. Như vậy, kết thúc chu kỳ tương quan này, bạn không những chẳng hề mất đi mà còn thường là có được nhiều hơn bạn tưởng.

Người đang giữ danh hiệu giàu có nhất thế giới, ông Bill Gates, đã từng có cách nói rất hay khi diễn đạt mối tương quan này. Khi được hỏi về những khoản tiền kếch sù hàng tỷ đô-la mà ông đã bỏ ra cho các quỹ từ thiện xã hội, ông nói: “Tôi chỉ trả lại cho thế giới những gì mà thế giới này đã cho tôi.” Con đường đi của các giá trị vật chất là như thế. Chúng không hề mất đi khi được sử dụng vào những công việc tốt đẹp, chỉ có điều là sự trở lại của chúng thường không được ta nhận biết một cách rõ ràng mà thôi.

Sự thật là nếu chúng ta chỉ biết bo bo giữ chặt lấy những giá trị vật chất mà mình đang có, thì chính điều đó sẽ làm cho tâm hồn ta trở nên hẹp hòi, ích kỷ. Chính sự hẹp hòi đó sẽ ngăn không cho ta có được sự sáng suốt và cảm hứng sáng tạo trong công việc, cũng như khiến cho ta phải mất dần đi những mối quan hệ tốt đẹp trong công việc. Kết quả là ta sẽ không tránh khỏi những khó khăn nhất định. Như vậy là, thay vì có thể tạo ra được những giá trị vật chất lớn hơn, ta lại đang lãng phí thời gian trong việc cố giữ lấy phần vật chất nhỏ nhoi đang có được.

Vì thế, nếu bạn có thể nhận biết được mối tương quan giữa các giá trị tinh thần và vật chất, bạn sẽ thấy cuộc sống trở nên đơn giản hơn và có rất nhiều sự tính toán so đo của chúng ta trong cuộc sống thật ra là sai lầm và hoàn toàn không cần thiết!

 




Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
27/02/2021(Xem: 4519)
Myanmar, đất nước chùa tháp, đang khổ đau. Hưởng ứng lời hiệu triệu kêu gọi của chư tôn tịnh đức tăng già Phật giáo “vì dân, do dân và của dân”, hàng triệu người dân trong mọi tầng lớp đã đổ ra đường phố ở các thị trấn và thành phố trên khắp đất nước Phật giáo Myanmar để phản đối cuộc đảo chính của chế độ độc tài quân sự Myanmar, đã lật đổ Chính phủ dân cử của nhà vô địch dân chủ kỳ cựu, nữ cư sĩ Phật tử Aung San Suu Kyi, Cố vấn nhà nước Myanmar, Chủ tịch và Tổng Bí thư Đảng Liên minh Quốc gia vì Dân chủ (NLD) vào ngày 1 tháng 2 vừa qua.
25/02/2021(Xem: 7334)
Phần này bàn về cụm danh từ "khoa học" trong tiếng Việt từ thời bình minh của chữ quốc ngữ đến nay. Các tài liệu tham khảo chính của bài viết này là cuốn "The Emergence of the Modern Sino-Japnese Lexicon – Seven Studies" (chủ biên/dịch giả Joshua A. Fogel – NXB Brill – Leiden/London 2015), và bốn tác phẩm của LM de Rhodes soạn: (a) cuốn Phép Giảng Tám Ngày (viết tắt là PGTN), (b) Bản Báo Cáo vắn tắt về tiếng An Nam hay Đông Kinh (viết tắt là BBC), (c) Lịch Sử Vương Quốc Đàng Ngoài 1627-1646 và (d) tự điển Annam-Lusitan-Latinh (thường gọi là Việt-Bồ-La, viết tắt là VBL) có thể tra tự điển này trên mạng, như trang http://books.google.fr/books?id=uGhkAAAAMAAJ&printsec=frontcover#v=onepage&q&f=false.
25/02/2021(Xem: 4745)
Vào hôm thứ ba, ngày 16 tháng 2 vừa qua, Đoàn thể Phật giáo Myanmar đã Tuần hành phản kháng chế độ độc tài quân sự Myanmar, tham gia chiến dịch chấm dứt chế độ độc tài quân sự Myanmar dưới sự cai trị hung hãn của các tướng lĩnh quân đội, và trả tự do cho các nhà lãnh đạo bị giam giữ của Chính phủ dân cử bị lật đổ, bao gồm cả nữ cư sĩ Phật tử Aung San Suu Kyi, Cố vấn nhà nước Myanmar, Chủ tịch và Tổng Bí thư Đảng Liên minh Quốc gia vì Dân chủ (NLD).
23/02/2021(Xem: 4850)
Ngày càng có thêm nhiều bằng chứng về việc xây dựng Quân đội giải phóng nhân dân Trung Quốc (PLA) và các cơ sở dân sự ở các khu vực khác ngoài Ladakh, một khu vực ở bang Jammu và Kashmir của Ấn Độ. Nó kéo dài từ Siachen Glacier trong phạm vi Karakoram đến Himalaya ở phía nam và có người gốc các dân tộc Ấn-Arya và Tây Tạng, chẳng hạn như dọc theo biên giới tranh chấp ở Vương quốc Phật giáo Bhutan và Arunachal Pradesh, một trong hai mươi chín bang của Ấn Độ.
23/02/2021(Xem: 5267)
Phật Giáo Việt Nam kể từ khi lập quốc (970) đến nay đã đóng góp rất lớn cho nền Văn Học Việt Nam qua các triều đại Đinh, Lê, Lý, Trần..v..v.. nhưng không có một Quốc Sử Việt Nam nào ghi nhận cả, điều đó thật là đau buồn, mặc dù Phật Giáo Việt Nam thời bấy giờ và cho đến bây giờ không cần ai quan tâm đến. Phật Giáo Việt Nam nếu như không có công gì với núi sông thì đâu được vua Đinh Tiên Hoàng phong Thiền sư Ngô Chân Lưu đến chức Khuông Việt Thái Sư và chức Tăng Thống Phật Giáo Việt Nam vào năm Thái Bình thứ 2 (971). Cho đến các Thiền sư như Pháp Thuận, Vạn Hạnh,v..v.... đều là những bậc long tượng trong trụ cột quốc gia của thời bấy giờ, thế mà cũng không thấy một Quốc Sử Việt Nam nào ghi lại đậm nét những vết son cao quý của họ.
23/02/2021(Xem: 10238)
Văn học thời Trần là giai đoạn văn học Việt Nam trong thời kỳ lịch sử của nhà Trần (1225 – 1400). Văn học thời Trần tiếp tục và có nhiều bước tiến bộ rõ rệt hơn so với văn học thời Lý (1010 – 1225). Văn học thời Trần chịu ảnh hưởng của Phật giáo và Nho giáo. Tư tưởng Phật giáo chủ yếu trong văn học thời Trần là tư tưởng thiền học.
23/02/2021(Xem: 8988)
Trong nội dung của ấn bản lần thứ hai của quyển “Tư tưởng Phật giáo trong Văn học thời Lý”, chúng tôi vẫn giữ những điểm chính quan trọng của ấn bản lần thứ nhất. Tuy nhiên, chúng tôi đã sửa chữa và bổ sung một vài nơi. Chúng tôi đánh giá cao sự góp ý và phê bình của: GS Lưu Khôn (Cựu GS tại trường ĐHVK Saigon và Cần Thơ), GS Khiếu Đức Long (Cựu GS tại ĐH Vạn Hạnh), Ô. Nguyễn Kim Quang (Cựu học sinh Lycée Petrus Ký 1953-1960), cố Kỹ Sư Nguyễn Thành Danh (Vancouver, Canada). Trong khi viết quyển sách này lần thứ nhất vào năm 1995, chúng tôi đã được sự giúp đỡ và góp ý của các thân hữu: cố Hoà Thượng Thích Nguyên Tịnh (Cựu Trú trì Chùa Thiền Tôn, Vancouver, Canada), cố GS Nguyễn Bình Tưởng (Cựu Hiệu Trưởng trường Trung Học Vĩnh Bình, và Cựu Giám Học trường Trung Học Nguyễn An Ninh, Saigon), chúng tôi chân thành cám ơn quý vị này.
20/02/2021(Xem: 6061)
Thơ tụng tranh chăn trâu của thiền sư Phổ Minh gồm tất cả mười bài thơ “tứ tuyệt” cho mười bức tranh chăn trâu với các đề mục sau đây: 1. Vị mục: chưa chăn 2. Sơ điều: mới chăn 3. Thọ chế: chịu phép 4. Hồi thủ: quay đầu 5. Tuần phục: thuần phục 6. Vô ngại: không vướng 7. Nhiệm vận: theo phận 8. Tương vong: cùng quên 9. Độc chiếu: soi riêng 10. Song mẫn: cùng vắng
20/02/2021(Xem: 8756)
Kinh Hoa Nghiêm được giải thích là kinh đầu tiên khi Phật đạt chánh đẵng chánh giác sau 49 ngày thiền định. Sau đó người giảng kinh Hoa Nghiêm cho chư thiên và bồ tát là giảng bằng thiền định tâm truyền tâm nên im lặng suốt 21 ngày. Kinh Hoa Nghiêm nói về Tâm. Kế đến Kinh Lăng Già Phật cũng giảng cho Ma vương và ma quỷ sống trong hang động ở đỉnh núi Lăng Già. Phật giảng bằng tâm truyền tâm ấn nên không có nói bằng lời và giảng về Thức vì Ma vương không còn uẩn sắc nữa mà chỉ còn là tâm thức. Kinh Lăng già là giảng về Duy Thức Luận. (bài viết của cư sĩ Phổ Tấn)
20/02/2021(Xem: 4953)
Washington: Theo báo cáo của The Economist, Trong nỗ lực mới nhất nhằm thắt chặt vòng vây Tây Tạng, Trung Cộng đang buộc người Tây Tạng ít quan tâm đến tôn giáo của họ hơn, và thể hiện nhiệt tình hơn đối với chế độ độc tài của Đảng Cộng sản Trung Quốc do Tập Cận Bình lãnh đạo tối cao. Đảng Cộng sản Trung Quốc đã tăng cường nỗ lực phủ nhận vai trò của Đức Đạt Lai Lạt Ma ra khỏi đời sống tôn giáo của người dân Tây Tạng để xóa bỏ danh tính của họ. Đảng Cộng sản Trung Quốc đã cưỡng chiếm Tây Tạng vào giữa thế kỷ 20 sau thập niên 1950, và kể từ đó đã kiểm soát khu vực cao nguyên tại Trung Quốc, Ấn Độ, Bhutan, Nepal, và Pakistan tại châu Á, ở phía bắc-đông của dãy Himalaya..
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]