Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

05. Bảy giai đoạn thanh tịnh

07/02/201109:32(Xem: 10912)
05. Bảy giai đoạn thanh tịnh

THƯƠNGYÊU LÀ THÔNG CẢM
BìnhAnson
NhàXuất Bản Tôn Giáo TL. 2005 - PL. 2549

-05-

Bảygiai đoạn thanh tịnh

Bảygiai đoạn thanh tịnh tâm mà mỗi hành giả phải hành trìđể khai phát tuệ giác được đề cập trong bài kinh 24, TrungBộ (Rathavinita Sutta, Kinh Bảy Trạm Xe) và trong bài kinh34 của Trường Bộ (Dasuttara Sutta, Kinh Thập Thượng).Ðây cũng là căn bản của bộ luận Thanh Tịnh Ðạo (Visuddhi-magga)do ngài Phật Âm (Buddhaghosa) biên soạn vào khoảng thếkỷ V Tây lịch: 3 chương đầu đề cập đến sự thanh tịnhcủa giới đức (giai đoạn 1), chương 4 đến 13 là để hướngdẫn thanh tịnh tâm qua các pháp hành thiền (giai đoạn 2) -đem tâm an định vào các tầng thiền-na, và các chương cònlại là để phát triển tuệ giác (giai đoạn 3 đến giai đoạn7). Cách sắp xếp như thế phản ảnh 3 pháp tu học chính yếucủa người con Phật để đoạn trừ phiền não (tam vô lậuhọc): Giới, Ðịnh, và Tuệ.

Cácbản Chú giải về sau này có đưa ra các khái niệm về 16tầng tuệ minh sát, và sự liên hệ với bảy giai đoạn thanhtịnh được tóm tắt như sau:

1.Thanh tịnh giới đức (Giới tịnh, Sīla-visuddhi).

2.Thanh tịnh tâm (Tâm tịnh, Citta-visuddhi).

3.Thanh tịnh quan kiến (Kiến tịnh, Ditthi-visuddhi). Sau giaiđoạn nầy, hành giả phát triển được:

(1)Tuệ phân tích danh sắc (Nāmarūpa-pariccheda-ñāna)
4. Thanhtịnh bằng cách khắc phục hoài nghi (Ðoạn nghi tịnh, Kankhāvitarana-visuddhi).Sau giai đoạn nầy, hành giả phát triển được:
(2)Tuệ phân biện nhân duyên (Paccaya-pariggaha-ñāna).
5. Thanhtịnh bằng cách thấu hiểu và nhận thấy thế nào là ConÐường, thế nào không phải là Con Ðường (Ðạo Phi-đạotri kiến tịnh, Maggāmagga-ñānadassana-visuddhi). Sau giaiđoạn nầy, hành giả phát triển được:
(3)Tuệ thấu đạt (Sammasana-ñāna), còn gọi là Thẩm sáttuệ.
6. Thanhtịnh bằng cách thấu hiểu và nhận thấy Con Ðường (Ðạotri kiến tịnh, Patipadā-ñānadassana-visuddhi). Sau giai đoạnnầy, hành giả phát triển được:
(4)Tuệ quán chiếu sanh diệt (Udayabbayānupassanā-ñāna),
(5)Tuệ quán chiếu sự diệt (Bhangānupassanā-ñāna), còngọi là Hoại tán tuệ,
(6)Tuệ phát hiện kinh sợ (Bhayupatthāna-ñāna), còn gọilà Kinh úy tuệ,
(7)Tuệ quán chiếu hiểm họa (Adīnavānupassanā-ñāna), còngọi là Nguy hại tuệ,
(8)Tuệ quán chiếu sự chán nản (Nibbidānupassanā-ñāna),còn gọi là Yếm ố tuệ,
(9)Tuệ muốn giải thoát (Muncitukamyatā-ñāna), còn gọilà Cầu thoát tuệ,
(10)Tuệ quán chiếu sự suy tư (Patisankhānupassanā-ñāna),còn gọi là Trạch sát tuệ,
(11)Tuệ xả về các hành (Sankhārupekkhā-ñāna), còn gọilà Hành xả tuệ,
(12)Tuệ thuận thứ (Saccānulomika-ñāna).
7. Thanhtịnh bằng cách thấu hiểu và nhận thấy (Tri kiến tịnh,Ñānadassana-visuddhi).Sau giai đoạn nầy, hành giả phát triển được:
(13)Tuệ chuyển tánh (Gotrabhū-ñāna),
(14)Ðạo tuệ (Magga-ñāna),
(15)Quả tuệ (Phala-ñāna),
(16)Tuệ ôn lại (Paccavekkhana-ñāna), còn gọi là Phản khántuệ.
*

Giaiđoạn đầu tiên là phải giữ gìn giới luật cho thật trongsạch, giới của người cư sĩ hay giới của hàng tu sĩ, đểthanh tịnh lời nói và hành động. Đó là Giới thanh tịnh.Tiếp theo, người con Phật phải nỗ lực hành thiền, đưatâm đến một mức độ an định vững mạnh. Đó là Tâmthanh tịnh.

Nămgiai đoạn kế tiếp là tiếp tục hành thiền để phát triểntrí tuệ, có trình bày chi tiết trong bộ luận Thanh Tịnh Đạotừ chương 19 đến chương 21. Ngài Hòa thượng Narada cũngcó đề cập đến trong quyển "Đức Phật và Phật Pháp",chương 38, và ở đây, xin lược trích như sau:

(...)Tiếp tục hành thiền, hành giả bắt đầu phát triển quankiến trong sạch (Kiến tịnh) để nhận thấy chân tướngcủa vạn pháp. Với tâm an trụ vào một điểm, hành giảphân tích và quan sát cái gọi là chúng sinh. Sự thẩm sátnày cho thấy rằng cái được gọi là "Ta, Tôi, Tự ngã", chỉlà tập hợp phức tạp của tâm và vật chất, hay danh vàsắc. Cả hai đều ở trạng thái luôn luôn biến đổi, luônluôn trôi chảy, như một dòng nước tuôn chảy liên tục.

Khiđã có được quan kiến chân chính về bản chất thực sựcủa cái gọi là chúng sinh và hoàn toàn dứt khoát với mọiảo tưởng về một linh hồn trường cửu, hành giả cố tìmnhững nguyên nhân sinh ra cái Ta và nhận định rằng thế giannày không có sự tự nhiên phát sinh mà không tùy thuộc ởmột, hay nhiều điều kiện, trong hiện tại hay trong quá khứ.Vạn pháp đều do duyên sinh. Hành giả nhận định rằng kiếpsống của mình có đây là do vô minh (avijja), ái dục(tanha),thủ chấp (upadana), và nghiệp (kamma)của kiếpquá khứ, và vật thực (oja)trong kiếp sống hiện tại.Do năm nguyên nhân ấy, cái gọi là chúng sinh được cấu tạo.Nguyên nhân quá khứ tạo điều kiện (duyên) cho hiện tại,và cùng thế ấy, hiện tại tạo điều kiện (duyên) cho tươnglai. Chú tâm suy niệm như thế ấy hành giả vượt lên mọihoài nghi về quá khứ, hiện tại và tương lai. Đây là Ðoạnnghi tịnh.

Tiếptheo, hành giả suy niệm rằng tất cả các vật cấu tạo,hay các pháp hữu vi, đều vô thường (anicca), phiềnnão (dukkha), và không có một thực thể (anatta).Hướng tầm mắt vào bất luận nơi nào, hành giả chỉ nhìnthấy ba đặc tướng ấy hiển lộ rành mạch, rõ ràng, khôngthể lầm lẫn. Bây giờ hành giả nhận thức rằng kiếp sốngchỉ là một dòng trôi chảy, một di động liên tục, khônggián đoạn. Dù ở các cảnh trời hay trên quả địa cầunày, hành giả không tìm được nơi nào có hạnh phúc thậtsự, bởi vì mỗi hình thức khoái lạc chỉ là bước đầu,mở đường đến đau khổ. Do đó, cái gì vô thường tấtnhiên phải chịu đau khổ, và nơi nào đau khổ và biến đổichiếm ưu thế thì không thể có một tự ngã trường tồnvĩnh cửu.

Khichú tâm hành thiền như thế ấy, đến một lúc nào đó, hànhgiả cảm thọ các trạng thái thỏa thích, hạnh phúc và vắnglặng, trước kia chưa từng bao giờ được biết. Hành giảcàng củng cố tâm định và tinh tấn thêm. Tâm đạo nhiệtthành càng tăng trưởng, tâm niệm toàn hảo, và tuệ minh càngtrở nên sâu sắc một cách lạ thường. Sớm nhận thấy rằngnhững hiện tượng mới nầy chỉ làm trở ngại cho nhữngtiến bộ tinh thần, hành giả trau giồi và phát triển "trạngthái trong sạch của sự hiểu biết" liên quan đến thế nàolà Con Đường và Không-Phải-Con-Đường. Đây là ÐạoPhi-đạo tri kiến tịnh.

Nhậnthức được con đường chân chánh, hành giả tiếp tục chútâm quán tưởng vào sự phát sinh và sự hoại diệt của tấtcả các pháp hữu vi. Trong hai trạng thái sinh và diệt, sựhoại diệt nổi bật chiếm ưu thế hơn, nên dần dần gâyấn tượng mạnh hơn trong tâm hành giả, bởi vì sự thay đổiđược nhận thấy dĩ nhiên và rõ ràng hơn sự trở thành.Do đó, hành giả hướng tâm chú niệm của mình về sự phântán của sự vật và nhận định rằng cả hai, danh và sắc,hai thành phần cấu tạo cá nhân mình luôn luôn ở trong trạngthái đổi thay, trôi chảy, không thể tồn tại giống hệttrong hai khoảnh khắc kế tiếp. Bây giờ, hành giả phát sinhsự hiểu biết rằng tất cả những gì bị phân tán đềulà đáng sợ. Toàn thể thế gian phát hiện trước mắt hànhgiả như một đống củi đang phừng cháy, một nguồn hiểmhọa. Kế đó là hành giả suy tưởng về tính chất rách nát,đổ vỡ và tạm bợ nhất thời của thế gian đáng kinh sợnày, có cảm giác nhàm chán nó và nảy sanh ra ý muốn vượtthoát ra khỏi đó. Hướng về đối tượng ấy, hành giảchú tâm niệm trở lại vào ba đặc tánh vô thường, khổ,vô ngã, và sau đó phát triển một tâm xả chọn vẹn, hoàntoàn thản nhiên đối với tất cả các pháp hữu vi - khôngluyến ái cũng không ghét bỏ, hay bất toại nguyện - đốivới bất cứ sự việc gì trên thế gian.

Tiếntrình trong giai đoạn thanh tịnh này có tên chung là "patipadañāna dassana visuddhi", trạng thái trong sạch của sự hiểubiết và nhận thức có liên quan đến Con Đường hay pháphành, Đạo tri kiến tịnh, giai đoạn thứ sáu của conđường thanh tịnh hóa.

Khiđạt đến mức độ nhận thức này, hành giả chọn mộttrong ba đặc tướng: vô thường, khổ, vô ngã, thích hợpnhất với mình và gia công khai triển tuệ giác theo chiềuhướng ấy cho đến khi thành tựu mục tiêu cuối cùng - ĐạoQuả Niết Bàn. Đây là giai đoạn thanh tịnh cuối cùng, Trikiến tịnh.

"Cũngnhư người đi trong đêm tối, nhờ trời chớp nên nhìn thấyquang cảnh quanh mình rồi giữ lại hình ảnh ấy trước mắtmột lúc lâu. Cũng thế ấy, do cái chớp bật sáng lên củatuệ giác, hành giả trực nhận Niết Bàn lần đầu tiên mộtcách rõ ràng và hình ảnh ấy lưu lại trong tâm, không baogiờ phai mờ."





Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
27/09/2017(Xem: 6400)
Nhân cách là vấn đề cơ bản của "tâm lý học"; khoa tâm lý cho rằng nhân cách được hình thành bởi 3 yếu tố: -xã hội, sinh học và tâm lý. Con người là một động vật tự hữu về hoạt động, một phần chịu ảnh hưởng bởi giáo dục, bởi cộng đồng xã hội và cuộc sống chung quanh. Ngoài vấn đề nhận thức tiếp thu từ ngoại cảnh, ý thức tự thân còn chịu ảnh hưởng không nhỏ về tập khí mà nhà Phật gọi là hạt giống tiềm ẩn trong tâm thức. Điều này tạo nên sắc thái cá biệt từ ý thức đến nhân cách. Nhân cách có thể thay đổi tùy hoàn cảnh, tuổi tác và sự cố.
27/09/2017(Xem: 7561)
Giông bão từ đại dương liên tục đánh vào bờ, gây lũ lụt, tàn phá nhà cửa, làm thiệt mạng cả mấy trăm người ở miền trung nam và đông nam Hoa-kỳ, rồi Ấn-độ và Việt-nam trong tháng qua. Tiếp theo là động đất, làm hàng trăm người ở Mễ-tây-cơ tử vong, mất tích. Rồi lại bão, quét qua các đảo quốc phía biển đông nước Mỹ, lấy đi mạng sống mấy chục người. Rồi lại động đất đâu đó ở châu lục Á châu. Lại có dự đoán động đất mạnh tại California (the Big One) vào tháng 10 năm nay. Thiên tai liên tục thị uy, đe dọa đời sống nhân loại bằng sức mạnh vô bờ mà dù đã đạt đến những kỹ thuật tân tiến hiện đại, người ta vẫn chưa tìm ra cách nào để khống chế. Chỉ có tiên liệu, dự đoán mà thôi. Sự tiên liệu có thể làm giảm thiểu tổn thất từ một số người nơi một xứ sở nào đó, nhưng cũng không sao tránh được một số trường hợp cá biệt.
25/09/2017(Xem: 7269)
Con đường thực nghiệm tâm linh dẫn đến đời sống giải thoát và giác ngộ đã được đức Phật giảng dạy ở trong các kinh điển, từ cô đọng đến khai triển, từ hẹp đến rộng, từ cạn đến sâu, từ phương tiện đến cứu cánh, qua các văn hệ kinh điển từ A hàm đến Đại thừa với nhiều thính chúng và nhiều căn cơ khác nhau. Đạo đế ở trong Tứ Thánh đế được các kinh điển Phật giáo nhấn mạnh là con đường diệt tận khổ đau và thành tựu các thánh quả giải thoát cho những ai có tín căn và nỗ lực thực hành.
25/09/2017(Xem: 8831)
Hai phật tử tại Anh Quốc bị phạt 15,000 bảng Anh vì tội phóng sinhVietbf.com - Thời gian gần đây, toà án mới tuyên mức phạt 15,000 bảng (gần 500 triệu đồng) cho hai người liên quan là Zhixiong Li (33 tuổi) và Ni Li (30 tuổi) do phá hoại môi trường vì đem tôm hùm và cua ra biển phóng sinh. Những buổi lễ phóng sinh luôn khiến người ta cảm động với câu chuyện hàng trăm, hàng nghìn loài động vật được trả tự do, thả về với môi trường sống. Tuy nhiên cách đây 2 năm, hai phật tử phóng sinh một lượng lớn tôm hùm trị giá 5,000 bảng (hơn 150 triệu đồng) xuống vùng biển Brighton, Anh đã bị phạt 15,000 bảng (gần 500 triệu) vì "tàn phá" môi trường.
23/09/2017(Xem: 7790)
Xuất gia gieo duyên báo hiếu là một truyền thống văn hóa đặc sắc của các nước Phật giáo Nam truyền và đã dần trở thành một phần không thể thiếu, được xem như nghĩa vụ thiêng liêng của mỗi thanh niên trong một giai đoạn nào đó của đời mình.
15/09/2017(Xem: 10261)
Có thể nói trào lưu trong những năm gần đây về sự ra đời của nhiều quyển sách viết riêng cho người trẻ đã chiếm được lòng của đông đảo bạn đọc là những thế hệ 8X và 9X trong thị trường xuất bản sách tại Việt Nam.
15/09/2017(Xem: 6813)
Tôi, hơn mười năm trở lại, Nha Trang lớn dậy bề thế về mọi mặt, nhất là du lịch. Tôi là người ăn chay, được các chị tổ bếp lo cho những bữa cơm chay đầy đủ ngon miệng, tiếp lửa cho những trang viết mới toanh. Có lẽ đây là một duyên lành tôi nhận được. Tôi đã ở Nha Trang hơn bốn mươi năm trước, thường nghe câu ca dao của người dân:
15/09/2017(Xem: 12227)
Đôi Giòng Tâm Sự Mỗi bộ óc con người đều có một câu chuyện và sau đây là câu chuyện của bộ óc tôi… Hơn mười năm trước đây, tôi là giáo sư Đại học Y Khoa Harvard, chuyên nghiên cứu và giảng dạy cho sinh viên về bộ óc của con người. Nhưng vào ngày 10 tháng 12 năm 1996, tôi đã học được bài học về não bộ từ chính bộ óc của mình.
15/09/2017(Xem: 8814)
Ngày xưa tôi rất thích đi phóng sinh. Có khi cả nhóm đặt mua khá nhiều cá, tôm cua, ốc, chim,… để phóng sinh. Thật là hạnh phúc khi làm lễ phóng sinh và phóng sinh để cứu mạng các loài động vật đáng thương này.
14/09/2017(Xem: 7935)
Dưới đây là phần chuyển ngữ một quyển sách nhỏ của Phật giáo Đài Loan được phổ biến khá rộng rãi. Tác giả là Hòa thượng Hsing Yun (星雲/Tinh Vân), vị đại sư viện chủ ngôi chùa nổi tiếng Fo Guang Shan (佛光山/Phật Quang Sơn) tại Kaohsung (高雄/Cao Hùng) thành phố lớn thứ hai tại Đài Loan. Theo lời giới thiệu trong quyển sách này thì Hòa thượng Tinh Vân sinh năm 1927, thụ phong tỳ kheo năm 1941, là một nhà sư thuộc Thiền Tông, học phái Lâm Tế (Linji). Sau khi thụ phong, Ngài tham gia tích cực vào các chương trình ấn hành kinh sách, cộng tác với các tạp chí Phật giáo và đồng thời thành lập các tổ chức canh tân Phật giáo, chẳng hạn như mở các "Lớp học giảng dạy giáo lý Phật giáo ngày Chủ nhật" tạo cơ hội cho thành phần thanh thiếu niên Phật tử gặp gỡ nhau, hoặc tổ chức các buổi tụng niệm tập thể dành cho các Phật tử tại gia.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]