Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

01. Thương yêu là thông cảm

07/02/201109:32(Xem: 10061)
01. Thương yêu là thông cảm

THƯƠNGYÊU LÀ THÔNG CẢM
BìnhAnson
NhàXuất Bản Tôn Giáo TL. 2005 - PL. 2549

-01-

Thươngyêu là thông cảm

Tỳ-khưuVisuddhicara
BìnhAnson trích dịch

Khichúng ta nhận thức được trên thế gian này, nhân loại vàcác loài chúng sinh khác đều chịu quá nhiều đau khổ, việctối thiểu mà ta có thể làm được khi còn sống là góp phầnvào việc làm giảm bớt nỗi khổ đau ở chung quanh ta.

Cónhiều người phục vụ nhân loại bằng nhiều cách tuyệtvời. Họ đã và đang góp phần thiện nguyện cung cấp dịchvụ an sinh xã hội, trợ giúp người bệnh, người tàn tật,người nghèo đói, người già, người sắp chết và nhữngngười đang lâm cảnh khó khăn. Tất cả những bậc khai sángtôn giáo đều dạy các tín đồ phải làm việc từ thiện.Trong Phật giáo, chúng ta không tin vào một đấng Tạo hóanhưng chúng ta tin vào lòng tốt và giữ giới không sát hạisinh linh. Chúng ta tin vào luật nghiệp báo nhân quả - làm tốtthì được tốt và làm xấu thì bị xấu. Do đó, chúng taluôn luôn cố gắng tu tập làm điều thiện lành, tránh cácđiều bất thiện như sát sinh, trộm cắp, tà dâm, nói dối,uống rượu hoặc dùng các chất say. Chúng ta tu tập để đạttới mức độ mình làm việc thiện là vì đó là việc thiện,chứ không phải vì sợ bị đọa xuống địa ngục hoặc vìmuốn được ân thưởng về sau. Chúng ta làm tốt vì ta vuithích làm tốt, và tự nhiên ta có khuynh hướng làm tốt. Nóicách khác, chúng ta không còn biết làm gì hơn là làm thiện,làm tốt. Thiện và ta là một.

ĐứcPhật dạy hàng đệ tử phải có lòng từ thiện và quan tâmđến người khác. Khi dạy về lòng bố thí, Ngài nói bấtcứ một nỗ lực nhỏ nào cũng quý. Ngay cả ném vụn bánhmì xuống nước để cho cá ăn cũng được Đức Phật khenngợi. Một lần nọ, khi vài Tỳ-khưu không chăm sóc một vịTỳ-khưu đang bị bệnh kiết lỵ, Đức Phật đã tự tay tắmrửa cho vị Tỳ-khưu đó và khiển trách các vị kia, nói rằng:"Ai chăm sóc người bệnh, người ấy chăm sóc Như Lai" (MahavaggaVIII 26.1-8). Đức Phật khuyến khích các bậc vua chúa nêncai trị xứ sở với lòng từ ái. Ngài khuyên họ nên diệttrừ nạn nghèo đói, vì đó là nguyên nhân sinh ra trộm cướpvà các tội ác khác. Vốn là một người yêu chuộng hòa bình,Đức Phật đã từng đứng ra can gián khi hai bộ tộc có ýđịnh gây chiến chỉ vì tranh giành một khúc sông. Đức Phậthỏi: "Cái gì quan trọng hơn - nước sông hay máu người đổxuống vì chiến tranh?". Hai bộ tộc nhận ra sự phi lý củacuộc tranh chấp và quyết định rút quân, không đánh nhaunữa.

Mộttrong những vị vua nhân từ nhất, chịu ảnh hưởng giáo phápcủa Đức Phật, là vua A Dục, trị vì Ấn độ vào thế kỷthứ ba trước Tây lịch, khoảng 200 năm sau khi Đức Phậtnhập diệt. Nổi tiếng về lòng nhân đạo, vua A Dục còncó lòng rộng rãi từ tâm đến cả loài thú. Ngài gửi cácy sĩ đến chữa bệnh cho cả người lẫn thú. Ngài xây nhànghỉ cho khách lữ hành, và dưỡng đường cho người nghèovà người bệnh. Mặc dù là một Phật tử thuần thành, vuaA Dục cũng cho phép dân chúng được tin theo bất cứ đạogiáo nào và hỗ trợ sự sinh hoạt của mọi giáo phái. VuaA Dục xem vai trò của mình là một người lãnh đạo nhântừ, lúc nào cũng mong người dân được thịnh vượng vàhạnh phúc.

Chúngta cũng vậy, nếu chúng ta theo lời Phật dạy, ta sẽ có nhữnghành động tương tự như vua A Dục để làm giảm thiểu sựđau khổ, mở rộng hòa bình và hạnh phúc. Chính Đức Phậtlà một tấm gương tốt đẹp nhất để chúng ta noi theo, vìNgài đã dành trọn cuộc đời của mình để dạy cho mọingười thấy được con đường thoát khổ. Ngài không nhữngchỉ muốn làm giảm khổ mà Ngài còn chỉ dạy con đườngđưa đến diệt khổ một cách rốt ráo. Sau khi chứng ngộ,Ngài dùng trọn 45 năm còn lại của đời mình để dạy chúngta cách thức diệt khổ. Ngài dạy con đường tỉnh giác.

ĐứcPhật nhận ra rằng chỉ bằng cách tu tập thật rốt ráo thìngười ta mới có thể diệt khổ. Mặc dù việc săn sóc ngườiđau ốm, chữa lành bệnh tật, cung cấp thực phẩm và giúpđỡ vật chất cho người bần hàn là một phần của việccứu khổ, nhưng đó chỉ là chữa những triệu chứng. ĐứcPhật muốn tìm một sự chữa trị dứt hoàn toàncơnbệnh khổ. Do đó, Ngài suy nghiệm toàn bộ vấn đề sinh vàtử. Để giải quyết vấn đề ở tận gốc rễ của nó,Ngài thấy chúng ta cần phải hay đổi tâm thức một cáchrốt ráo. Sự đau khổ chủ yếu là do nơi tâm. Khi một ngườibị đau đớn về thể xác, người đó thường phản ứngbằng sự buồn rầu, sợ hãi và chán nản. Nhưng Đức Phậtnói nếu là một người biết hành thiền thì người đó cóthể chịu đuợc cơn đau thể xác mà không bị đau về tinhthần. "Thân có đau, nhưng đừng để tâm đau theo", Ngàidạy như thế. Nói cách khác, người ấy không phản ứng vớicơn đau bằng sự buồn rầu, lo âu, chán nản, oán ghét, sânhận, v.v. Ngược lại, người ấy phản ứng với một tâman định và bình thản. Người ấy vẫn vui vẻ và còn cóthể an ủi khuyến khích những người khác nữa.

Vấnđề chủ yếu là do ở Tâm. Nếu chúng ta loại trừ đượctham, sân, si ra khỏi tâm thức mình, chúng ta có thể hoàn toànchế ngự và tiêu diệt được sự khổ não về tinh thần,như băn khoăn và lo lắng, sầu não và than van. Ta phải thừanhận rằng đau đớn thể chất là điều không thể tránhkhỏi khi ta còn hiện hữu với cái thân xác này. Tất cảchúng ta đều biết sự thật là không ai có thể thoát khỏigià lão, bệnh hoạn, tử vong. Nhưng Đức Phật nói một khitâm chúng ta được thanh tịnh, không còn mọi bợn nhơ củatham, sân, si, thì cơn đau thể xác không còn làm ta sợ hãinữa. Không gì lay chuyển ta được nữa. Không gì làm ta tứcbực được nữa, dù đó là cơn đau đớn kịch liệt củanhững loại bệnh nan y. Tâm ta có thể vẫn giữ điềm nhiên.Vì vậy, có lần ngài Anuruddha (A-nậu-lâu-đà), một vị đạiđệ tử của Đức Phật, được hỏi là làm sao ngài có thểgiữ sự an nhiên khi bị bệnh nặng, ngài trả lời rằng đólà vì ngài đã làm chủ được tâm của mình qua việc hànhthiền giác niệm do Đức Phật dạy.

Ngoàira, Đức Phật cũng dạy là nếu người nào đã đạt đếnmức độ diệt được tham, sân, si, thì sẽ không còn phảitái sinh nữa. Khi người ấy chết, đó là kiếp cuối củabậc thánh A-la-hán. Người ấy đã đạt đến trạng tháiNiết Bàn an lạc, vô sinh. Vì không còn tái sinh, người ấykhông còn phải trải qua cảnh lão, bệnh, tử. Đức Phậtnói, đó mới là diệt khổ.

Giảmthiểu phiền khổ

Trêncon đường nỗ lực tinh tấn chấm dứt hoàn toàn sự khổ,chúng ta nên giúp cứu khổ bằng mọi cách trong khả năng củamình. Thế gian này không thiếu gì những cảnh khổ ải. Conngười gánh chịu khổ não qua nhiều cách khác nhau. Khi đọctin tức trên báo chí, ta thấy cái khổ ở mọi nơi. Ngườita cãi nhau, đánh nhau, giết nhau, cướp bóc, dối trá, lừađảo, và gây khổ cho nhau bằng đủ mọi cách. Chúng ta làmkhổ cho nhau, do sự mê muội của chúng ta. Ngoài ra, còn biếtbao thiên tai, tai nạn, rủi ro, đói khát, bệnh tật. Và cảnhlão, bệnh, tử luôn luôn theo sát chúng ta từng bước.

Thựcthế, thế gian này tràn đầy khổ ải. Tại sao chúng ta lạiđổ thêm khổ ải vào đó? Tại sao chúng ta không chịu dấnthân, giúp làm giảm bớt khổ ải? Ngay cả nếu không làmđược nhiều, chúng ta cũng có thể làm được chút ít. Mọinỗ lực, dù lớn dù nhỏ, đều tốt cả. Như là có ngườiđã nói: "Không có sự sai lầm nào lớn hơn sự sai lầmlà mình không chịu làm gì cả bởi vì nghĩ rằng mình chỉcó thể làm được quá ít". Mỗi chúng ta đều có thểlàm được một chút ít gì đó, tùy theo hoàn cảnh và khảnăng của mình. Trước hết, chúng ta có thể bắt đầu bằngcách ăn ở, cư xử tử tế hơn. Chúng ta có thể kiểm soátcơn giận của chúng ta. Mỗi khi giận dữ, chúng ta gây khổnão cho chính mình và người khác. Nhưng nếu chúng ta kiểmsoát được sự giận dữ và nuôi dưỡng lòng bao dung và nhẫnnại, tình thương và từ tâm, chúng ta trở thành những ngườitử tế hơn, và điều đó sẽ giúp mang niềm vui và hạnhphúc đến cho người khác.

Nóicách khác, chúng ta bắt đầu bằng cách thanh tịnh tâm, trừkhử mầm mống bất thiện và tiêu cực của tham, sân, si.Dựa vào khả năng kiểm soát được các trạng thái bất thiệnnày, chúng ta phát triển tình thương và tâm từ. Chúng ta trởnên tử tế hơn trong quan hệ với những người chung quanh.Chúng ta nói chuyện một cách thương yêu và dịu dàng hơn,và tránh những lời cộc cằn lỗ mãng, châm biếm mỉa mai.Chúng ta trở nên quan tâm nhiều hơn về sự an vui của ngườikhác. Nếu chỉ biết lo cho chính quyền lợi của mình thìchúng ta sẽ không thể mở rộng lòng thương yêu. Muốn cótình thương yêu, chúng ta phải biết quan tâm đến ngườikhác, chứ không phải chỉ riêng có bản thân mình. Vì vậy,chúng ta phải tự hỏi, mình có thương yêu đủ chưa? Mìnhcó quan tâm đủ chưa? Nếu chưa, thì chúng ta chưa thể làmgì để giảm bớt sự khổ. Bởi chính từ tình thương yêuthật sự mà chúng ta mới có những hành động cụ thể.

Mỗingười chúng ta đóng góp theo cách riêng của mình, theo bấtcứ cách thức nào mà mình biết. Chẳng hạn, chúng ta có thểđóng góp bằng cách chia sẻ kiến thức về Phật Pháp màmình biết, cho dù sự hiểu biết của mình còn rất hạn chế.Ta có thể khuyến khích mọi người hành thiền và hướngdẫn họ chút ít trên đường tu học. Ta có thể kêu gọimọi người thương yêu, quan tâm đến nhau hơn, tử tế vàkiên nhẫn với nhau hơn, v.v. Dĩ nhiên chúng ta không hoàn toàn,và có những lúc, chúng ta không làm tròn vai trò của mình.Có câu tục ngữ nói rất đúng, rằng: "Nói thì dễ, nhưnglàm được lời mình nói thì rất khó". Vì vậy, ta cũngnên là người đầu tiên đứng ra nhìn nhận những nhượcđiểm của mình và chấp nhận sửa sai. Chúng ta thường cótác ý tốt và không có ý định hại ai. Nhưng do sự sơ hở,kiêu căng, thiếu hiểu biết, thiếu nhẫn nại, thiếu bao dung,v.v., chúng ta có thể làm khổ phiền người khác, cho dù chúngta có ý định tốt. Nhưng một người có tâm hồn cao thượngsẽ thông cảm và tha thứ cho ta. Khả năng tha thứ là mộtđức tính tuyệt vời, vì vậy mới có câu: "Lầm lỗi làngười, tha thứ là thánh".

Bạncứ sẵn sàng cống hiến, đóng góp, bố thí, và chỉ có bạnmới biết cách nào mình có thể đóng góp hay nhất, tốt nhất.Mỗi người chúng ta đều có sở trường, tài nghệ và năngkhiếu khác nhau. Điều kiện và hoàn cảnh mỗi người mộtkhác, cho nên chúng ta đóng góp theo cách thức riêng của mình,tùy theo điều kiện và căn duyên của mình. Điều quan trọnglà ta có cố gắng, ta làm theo khả năng của mình. Bất cứmột đóng góp nhỏ nhặt nào cũng tốt, và sau một thời gianthì ta sẽ nhận ra rằng mình đã làm được khá nhiều việc.Và đó là dịp để ta hoan hỉ. Dĩ nhiên điều đó không cónghĩa là ta nên ngừng nghỉ trên sự hoan hỉ đó. Còn rấtnhiều việc phải làm, cho nên ta phải tiếp tục nỗ lực,tiếp tục tinh tấn thêm.

Thươngyêu là thông cảm

Muốnchết lành, chúng ta phải sống tốt. Nếu đã sống tốt thìchúng ta có thể chết lành, không hối tiếc. Chúng ta ra đibình an, hài lòng rằng mình đã làm tất cả những gì mìnhcó thể làm được, rằng trong đời mình đã chia sẻ sựcảm thông và hạnh phúc, rằng mình đã sống theo những nguyêntắc của mình dựa trên tình yêu thương của tâm từ.

Thươngyêu là thông cảm. Tình thương yêu không phán xét hay lên án.Tình thương yêu lắng nghe và thông hiểu. Tình thương yêuquan tâm và có thiện cảm. Tình thương yêu chấp nhận vàtha thứ. Tình thương yêu không có ranh giới. Tình thương yêukhông phân biệt, không nói: Tôi theo Nam tông, anh theo Bắc tônghoặc Mật tông. Tình thương yêu không nói: Tôi theo Phật giáocòn anh theo Thiên chúa giáo, Hồi giáo, hoặc Ấn độ giáo.Hoặc tôi là người Hoa, chị là người Mã lai, ông kia làngười Ấn, bà nọ là người Âu. Hoặc tôi là người Đôngphương, còn anh là người Tây phương; hoặc tôi là ngườiMã lai, anh là người Nhật, chị là người Mỹ, người Miến,người Thái, v.v.

Tìnhthương yêu vượt qua mọi rào cản. Tình thương yêu thấyvà cảm nhận được chúng ta đều cùng một giống, đó lànhân loại. Nước mắt chúng ta đều như nhau, chúng đều mặn,và máu chúng ta đều đỏ. Khi đã có tình thương yêu và từtâm, chúng ta có thể thông cảm với người khác. Chúng tathấy rằng mình cùng đi trên một con thuyền trong cơn sónggió biển cả cuộc đời. Chúng ta là bạn khổ đồng hànhtrong biển trầm luân, cái vòng sinh tử luân hồi trong cõiTa-bà. Chúng ta là anh chị em lẫn nhau qua nhiều đời, nhiềukiếp.

Mộtkhi chúng ta đã thấy và cảm nhận điều này, mọi rào cảnvề chủng tộc, tôn giáo, văn hóa, phong tục tập quán, v.v.sẽ sụp đổ. Chúng ta mở rộng cánh tay với trái tim yêuthương thuần tịnh. Chúng ta hiểu và cảm nhận được cáikhổ của người khác. Tâm từ bao trùm thân ta. Trong lời nóihoặc hành động của chúng ta, người khác cảm nhận đượctình thương yêu và tâm từ này. Nó làm an dịu và chữa lànhkhổ ải của mọi người. Nó góp phần vào nền hòa bìnhvà sự cảm thông trên thế giới.

Chuyệncon bọ cạp

Tìnhthương yêu đi đôi với tâm từ. Khi có được một trái timthương yêu, tâm từ sẽ nổi lên dễ dàng trong ta. Mỗi lầnthấy một người chịu khổ, ta tự cảm thấy mình cần phảilàm điều gì đó để giúp giảm sự khổ cho người ấy.Tâm từ tạo ra một đức tính muốn loại trừ hết mọi sựkhổ. Chúng ta có thể nhận ra ngay điều đó, khi ta có hànhđộng tức thời để chấm dứt hoặc giảm bớt nỗi khổcủa một người nào.

Câuchuyện sau đây sẽ giúp hiểu rõ hơn: Một người nọ thấycon bọ cạp sắp chết đuối trong một vũng nước. Tự nhiênmuốn cứu giúp nó, ông ta nhanh nhẹn đưa tay ra vớt con bọcạp khỏi vũng nước, đặt nó xuống chỗ khô ráo. Con bọcạp liền chích ông ta. Vì muốn qua đường, nó đi tiếp vàlại lọt vào vũng nước. Thấy nó sắp chết đuối, ngườiđàn ông vớt nó lên lần thứ hai và lại bị nó chích nữa.Một người khác bên đường thấy vậy bèn nói: "Tại saoông dại quá vậy? Bây giờ ông bị chích chẳng những mộtlần mà đến hai lần! Thật là điên rồ khi phải cứu vớtmột con bọ cạp!" Người đàn ông trả lời: "Thưa ông, tôikhông thể không làm được. Ông thấy không, bản tính củacon bọ cạp là chích. Còn bản tính của tôi là cứu. Tôikhông thể làm gì khác hơn là cứu con bọ cạp."

Ngườiđàn ông nọ có lẽ nên dùng trí khôn và lấy một que câyđể vớt con bọ cạp. Nhưng có thể ông ta nghĩ rằng mìnhcó thể vớt nó bằng tay với một cách nào đó để khỏibị chích. Hoặc ông ta có thể nghĩ rằng một con bọ cạptrong cơn hoạn nạn như vậy sẽ không chích mình. Trong bấtcứ trường hợp nào, bài học của câu chuyện này là phảnứng tức thời của người đàn ông muốn cứu một sinh mạngkhác, dù đó chỉ là một loại côn trùng. Nó cũng cho thấyngười này có tâm từ cao quý đến độ cho dù mình chỉ nhậnsự vô ơn của người mình giúp, điều đó cũng không sao.Đức tính của ông ta là lòng giúp đỡ, và nếu phải giúpnữa thì ông cũng làm. Ông ta không biết ghi giữ trong lòngmột sự cay đắng thù hận nào.

Dođó, lòng từ ái là ngôn ngữ của con tim. Khi có được tìnhthương yêu và lòng từ ái thúc đẩy, chúng ta sẵn sàng giúpđỡ người khác, bất kể màu da, tôn giáo, quốc tịch. Khiđã có từ tâm thì việc xác định màu da, tín ngưỡng v.v.trở thành thứ yếu, không còn quan trọng nữa.

Nếucố gắng nuôi dưỡng loại tình thương yêu và từ tâm nhưvậy, khi đến lúc chết, chúng ta sẽ ra đi một cách bìnhan, thanh thản. Ngay cả nếu chưa thành công một trăm phầntrăm trong nỗ lực thương yêu toàn hảo, chúng ta vẫn có thểvui sướng và hài lòng là mình đã cố gắng hết sức. Vàchắc chắn là chúng ta đã thành công trong một mức độ nàođó.

Ngũgiới

Nếuchúng ta đã cố gắng nuôi dưỡng loại tình thương yêu nhưvậy, thì việc giữ năm giới sẽ không phải là quá khó.Khi giữ trọn vẹn năm giới này - không sát sinh, trộm cắp,tà dâm, nói dối, uống rượu hoặc dùng các chất say - tamang hạnh phúc và sự an toàn đến người khác. Bằng cáchnào? Là vì không ai phải lo sợ về chúng ta. Họ không phảisợ hãi, e ngại; trái lại, họ cảm thấy rất an toàn vàthoải mái khi gần gũi chúng ta. Họ cảm thấy an tâm là chúngta không làm hại họ, cướp của, hoặc lừa dối họ. Chúngta không dan díu với vợ hay chồng của họ. Chúng ta khôngnói dối với họ. Hơn nữa, nếu chúng ta không uống rượu,họ không phải lo lắng về chuyện con cái họ có thể bắtchước thói uống rượu của chúng ta. Họ cảm thấy có thểtin tưởng chúng ta vì chúng ta không uống rượu say sưa. Chúngta sùng đạo và thực hành con đường thiện lành, ngay thẳng.Chúng ta là những người vô hại. Người nào còn ham muốnthú vui với cảm giác mạnh có thể nghĩ rằng chúng ta cómột cuộc đời nhàm chán, và chúng ta là người điên rồ,ngu dại. Nhưng điều đó không quan trọng. Chúng ta vui vẻchấp nhận con người của mình. Và người nào có sự hiểubiết minh triết sẽ ngợi khen chúng ta.

Vậythì việc chúng ta giữ năm giới là điều tốt. Hơn nữa,ta còn thực hành lòng bố thí rộng rãi và tử tế. Ta quantâm và chia sẻ những gì chúng ta có thể cung hiến. Ta cốgắng tăng trưởng sự giác niệm mà Đức Phật đã dạy,tinh tấn sống một cuộc đời trong tỉnh giác. Ta hành thiềnđể hiểu rõ hơn về bản chất của sự hiện hữu, về nhữngđặc tính vô thường, khổ và vô ngã của đời sống. Chonên, khi đã làm hết mọi việc đó - trong đạo Phật gọilà bố thí, trì giới, tham thiền, khi đã sống một cuộcđời tốt đẹp, ta còn gì để sợ khi chết? Ta còn gì đểân hận?

*

Chínhvì vậy, muốn có một cái chết tốt thì phải có một cuộcsống tốt. Và khi đã sống đẹp, ta có thể chết đẹp. Tara đi bình an, hài lòng rằng mình đã làm tất cả những gìmình có thể làm được. Chúng ta có thể còn phạm vài lỗilầm trong cuộc sống. Nhưng có mấy ai sống mà không phạmlỗi lầm? Là phàm nhân chưa giác ngộ, ta có thể đã làmmột số việc sai quấy. Điều đó dễ hiểu, vì không ai hoàntoàn cả. Nhưng điều quan trọng là một khi nhận ra nhữngsai lầm đó, ta bắt đầu vun trồng tình thương yêu và từtâm, bắt đầu gìn giữ giới hạnh và thanh lọc tâm thứccủa mình. Ta vui sướng vì mình còn có đủ thì giờ và cơduyên để chuyển sang con đường đúng đắn của Chánh Pháp,đưa đến giải thoát tối hậu. Như người ta thường nói:"Thàtrễ còn hơn không". Chúng ta có thể đến nơi đó có phầnchậm trễ hơn nhiều người khác, nhưng ít ra, ta vẫn có thểtiến đến đó được.

(Tríchdịch: "Loving And Dying",
BhikkhuVisuddhicara)
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
03/07/2021(Xem: 16035)
Vào thời đại khủng hoảng niềm tin của tất cả tôn giáo, lòng người càng lúc hồi hộp bất an, giáo lý đức Thích Ca Mâu Ni như mặt trời chiều xuống bóng hoàng hôn ,Mật Tông Kim Cang Thừa như ngọn đèn sắp tắt, chỉ còn lại những bộ đại tạng kinh phủ đầy bụi trên những kệ kinh, nằm bất tỉnh không ai hỏi thăm trong những tu viên,viện bảo tàng cô đơn thiếu bóng người. Cuốn sách Mật Tông Kim Cang Thừa Chú Giải Toàn Thư Tập Hai, là sự trình bày và phô diễn mật nghĩa thậm thâm của Đại Phật Đảnh Lăng Nghiêm đà la ni , Bát Đại Kim Cang Thần Kinh và các phụ bản vô thượng du già. Là sự trợ duyên cho những ai, đã có gieo hạt giống pháp môn này, có thể khai hoa kết trái thành tựu sự tu tập giải thoát. Linh Quang từ nhỏ xuất gia tu học , tầm sư học đạo, và đi du học nhiều nước, nên trong đầu nhiều ngôn ngữ lộn qua lộn lại, bây giờ Tiếng Việt cũng quên dần,chính tả viết sai nhiều lắm, nên quý vị thông cảm bỏ qua những lỗi lầm về câu văn từ ngữ.
01/07/2021(Xem: 3723)
Kinh Đại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa, đã được chính Đức Thế Tôn tuyên dương là Bổn Kinh Thượng Thừa, bao gồm những bí yếu cực kỳ nhiệm mầu, vi diệu mà Chư Phật trao truyền lại cho những ai đủ tín tâm thọ nhận. Pháp-bảo được lưu truyền đến nay, vẫn sáng ngời toả rạng lưu ly qua bao thăng trầm của thế sự vô thường, với tâm nguyện hoằng truyền Chánh Pháp của các bậc minh sư, tuỳ căn cơ chúng sanh mỗi thời mà soạn dịch. Một, trong những bổn kinh Diệu Pháp Liên Hoa thường được trì tụng tại các tự viện là bổn cố đại lão Hoà Thượng Thích Trí Tịnh biên soạn, hoàn tất với 557 trang, gồm 7 quyển, chia thành 28 phẩm , mỗi phẩm đầy đủ văn kinh và thi kệ. Cũng do nhu cầu và phương tiện tu học của Phật tử mà Hoà Thượng Thích Trí Quảng cũng đã lược soạn Diệu Pháp Liên Hoa Kinh thành Bổn Môn Pháp Hoa Kinh để Phật tử tại các Đạo Tràng Pháp Hoa có thể hàng ngày trì tụng mà không bị gián đoạn vì không đủ thời gian. Bổn Môn Pháp Hoa Kinh được Hoà Thượng trân trọng biên soạn, cô đ
29/06/2021(Xem: 6093)
Kính Pháp Sư Sướng Hoài, tôi tu sĩ Thích Thắng Hoan đọc qua tác phẩm PHẬT HỌC VĂN TẬP của ngài viết nhận thấy ngài một nhà bác học uyên thâm Phật giáo nắm vững mọi tư tưởng cao siêu của cácphái, các tông giáo cả trong đạo lẫn ngoài đời. Toàn bộ tác phẩm của ngài đều xây dựng vững chắc trên lãnh vực biện chứng pháp của Nhân Minh Luận. Nội dung tác phẩm trong đó, mỗi một chủ đề ngài biện chứng bằng những lãnh vực mặt phải mặt trái, chiều sâu chiều cạn, mặt phủ định, mặt xác định,cuối cùng để làm sáng tỏ vấn đề bằng kết luận. Tôi vô cùng kính nể kiến thức của ngài.
29/06/2021(Xem: 6291)
Phật giáo dùng từ bi làm căn bản, xem trọng giới sát nên thực hành phóngs anh.Từ nghĩa là trao cho khoái lạc; Bi nghĩa là san bằng khổ não. Người đời rất quý mến thân mạng, chồng vợ con cháu, tiền của, nhưng từ chối mỗi người không thể che chở bao gồm chung cả. Giả như nếu bất hạnh gặp gian nguy, vì cứu thân mình, thà bỏ tất cả vật ngoài thân, để cầu được sinh tồn riêng mình.Con người đã tham sống sợ chết, sanh mạng con vật nhỏ bé như con muỗi, con ve, sâu bọ, kiến mối, còn biết tránh chạy cái chết cầu mong được sống, thì các động vật khác chúng nó sao lại không như thế?
28/06/2021(Xem: 3986)
Trước khi nói đến tinh thần Trung đạo của Phật giáo, thiết nghĩ cần phân biệt sự khác nhau giữa tinh thần “Trung dung” và “Trung đạo.” “Trung dung” là những thiên trong Kinh Lễ. Sách Trung Dung do Tử Tư làm ra Mục đích của sách Trung Dung là giúp con người hiểu được đạo “Trung dung” để đạt đến một trình độ đạo đức cao hơn. Khổng Tử nói về đạo "trung dung", tức là nói về cách giữ cho ý nghĩ và việc làm luôn luôn ở mức trung hòa, không thái quá, không bất cập và phải cố gắng ở đời theo nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, cho thành người quân tử. Cũng theo tinh thần “Trung dung” như thế, không thể có một thái độ “Trung dung” cố định; tùy thời tùy thế mà linh hoạt. “Trung dung” với ý nghĩa trên là dung hợp, quân bình giữa thái quá và bất cập. Ví dụ : thuyết Duy Vật chủ trương tranh đấu; thuyết Duy Tâm của Đức Khổng Tử, chủ trương điều hòa hai yếu tố cực đoan bằng lẽ Trung Dung.
27/06/2021(Xem: 8326)
Pháp Học và Pháp Hành Khi đề cập đến những người tu trong Phật Giáo, thì chúng ta thấy có phân ra hai khuynh hướng tu học, một số vị thì nghiêng về pháp học, còn số vị khác lại chuyên về pháp hành. Vậy pháp học là gì ? Là cả đời tu chỉ chuyên về việc nghiên cứu, học tập kinh điển, xem các luận bản... để biết được hết Tam tạng kinh điển ( Kinh, Luật, Luận ), nhiều vị còn phiên dịch kinh điển, hay viết ra nhiều bộ luận dựa trên kiến thức, sự hiểu biết đã tích lũy. Nhưng tâm thật sự chứng ngộ, hay đạt đạo thì có thể chưa, chỉ hiểu, chứ chưa thực chứng. ( Còn số vị mà chuyên về pháp học nhưng tâm đã giác ngộ thì rất hiếm có, thời nay càng vô cùng hiếm ).
27/06/2021(Xem: 5602)
- Kính thưa chư Tôn đức, chư Pháp hữu & quí vị hảo tâm. Với tâm niệm hộ trì chư Tôn đức Tăng già, các bậc tu hành nơi đất Phật trong lúc nhiều khó khăn do Dịch covid đang nhiễu nhương, chúng con, chúng tôi đã thực hiện hai buổi cúng dường tịnh tài, tịnh vật và một ít nhu yếu phẩm đến chư Tăng Ni thuộc truyền thống Phật giáo Kim Cương Thừa Tibet tại Dharamsala, các vị Ẩn sỹ trên đỉnh Triund Himachal, cũng như các vị Tăng Ni VN hiện đang theo học PG Mật Tông tại Dharamsala India (19 vị). Sư cô Thích nữ Huệ Thảo đã thừa hành Phật sự này và đã cúng dường tất cả là 245 vị tu sỹ, trong đó có 19 vị tránh tiếp xúc đám đông nên đã nhận chuyển vào tài khoản cá nhân từ Sư cô Huệ Thảo, một số vị vì bịnh trạng đã nhờ bạn đồng tu nhận dùm, mỗi vị thọ nhận 1500INR kèm với một số tịnh vật cúng dường.
26/06/2021(Xem: 15607)
LỜI GIỚI THIỆU “Chết đi về đâu” là tuyển tập các bài pháp thoại của thầy Nhật Từ tại Hoa Kỳ, Úc châu và Việt Nam. Dựa vào kinh điển Phật giáo thuộc các truyền thống khác nhau, thầy Nhật Từ đã phân tích những trở ngại về tâm lí trước cái chết thường làm cho cái chết diễn ra sớm hơn và đau đớn hơn. Nếu chết được hiểu là tiến trình tự nhiên mà mỗi hữu thể đều phải trải qua thì nỗi sợ hãi về cái chết sẽ trở thành nỗi ám ảnh, trước nhất là từ hữu thức sau đó là từ vô thức, làm cho cuộc sống con người trở nên tẻ nhạt và đáng sợ.
26/06/2021(Xem: 10836)
LỜI NÓI ĐẦU Tác phẩm “Thế giới Cực Lạc” là tuyển tập các bài giảng của thầy Nhật Từ về nội dung của kinh A-di-đà. Với cách diễn tả và phân tích đơn giản và đi thẳng vào mọi vấn đề, thầy Nhật Từ đã giới thiệu về bản chất Tịnh độ Tây phương gắn liền với xã hội con người. Để có được kết quả vãng sanh Tây phương, mỗi hành giả cần hội đủ năm điều kiện tiên quyết.
25/06/2021(Xem: 7924)
Lời Nói Đầu Nam Mô Đại Từ Đại Bi Tầm Thanh Cứu Khổ Cứu Nạn Linh Cảm Ứng Quán Thế Âm Bồ Tát. Kính bạch chư Tôn Đức Tăng Ni, Kính thưa quý Phật tử, Trong thời gian cả thế giới đang bị dịch Covid-19, Sa di Thông Đạo đã dày công nghiên cứu Ngũ Bách Danh - Quán Thế Âm Bồ Tát. Đến nay đã hoàn thành bằng ba ngôn ngữ khác nhau: chữ Việt Nam, chữ Anh, chữ Hán. Bất cứ nơi nào có đạo Phật, chắc chắn có tu sĩ, có Phật tử sinh hoạt chung với nhau. Theo truyền thống Bắc tông, hằng năm các chùa đều tổ chức lễ tưởng niệm Đức Quán Thế Âm Bồ Tát ba lần vào những ngày 19 tháng Hai, 19 tháng Sáu, và 19 tháng Chín Âm lịch.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]