Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

05. Đầu năm đi chùa

02/02/201108:57(Xem: 5864)
05. Đầu năm đi chùa

CƯ TRẦN LẠC ĐẠO
Cư Sĩ Chánh Trực
Toronto, Canada 1999 - PL 2543

Đầu năm đi chùa
đúng theo chánh pháp

Đầu năm đi chùa
đúng theo chánh pháp
Theo thông lệ xưa,
cứ vào dịp Tết,
Nguyên Đán hằng năm,
nhiều người Phật Tử,
cũng như mọi người,
không phải Phật Tử,
thường hay đi chùa,
lễ Phật đầu năm,
hái lộc đầu xuân,
thắp hương khấn vái,
cầu nguyện chư Phật,
chư vị Bồ Tát,
tổ tiên ông bà,
phù hộ độ trì,
năm mới trọn lành,
bình yên vô sự,
tai qua nạn khỏi,
vạn sự kiết tường,
muôn sự hanh thông,
mọi việc như ý.

Đó là truyền thống,
tín ngưỡng lâu đời,
chúng ta giữ gìn,
từ thế hệ này,
sang thế hệ khác,
từ ở trong nước,
ra đến hải ngoại.
Bất cứ nơi nào,
người Việt sinh sống,
trước hay là sau,
sớm hay là muộn,
cũng có cảnh chùa,
cũng có tu viện,
Phật đường Thiền đường,
tịnh thất thiền thất,
đạo tràng tu học,
dựng lên phát triển,
công sức bá tánh,
tịnh tâm tịnh tài,
để cho mọi người,
có nơi lễ Phật,
có nơi tạo phước,
có nơi tưởng niệm,
tổ tiên ông bà,
phát huy văn hóa,
có nơi tĩnh tâm,
sau những tháng ngày,
đấu tranh tranh đấu,
kiếm sống vất vã,
trong suốt cuộc đời,
đầy dẫy khó khăn,
những sự bất trắc,
việc bất như ý,
căng thẳng muộn phiền,
hệ lụy trầm kha,
mất mát vật chất,
cũng như tinh thần,
thăng trầm sóng gió,
quan trọng nhứt là:
có nơi tu học,
thực hành Chánh Pháp,
để đạt mục đích,
giác ngộ giải thoát,
dứt trừ những chuyện,
phiền não khổ đau,
thoát ly sanh tử,
luân hồi nhiều kiếp.

Tuy nhiên như vậy,
con người đạt được,
cuộc đời bình an,
như lời cầu nguyện,
hay không đạt được,
chuyện đó không tùy,
các đấng thiêng liêng,
các vị thần linh,
ngọc hoàng thượng đế,
bất cứ vị nào.
Tại sao như vậy?
Bởi vì sự thực,
thánh thần thiên địa,
các vị thiêng liêng,
nếu là các bậc,
chí công vô tư,
bất tùy phân biệt,
không bao giờ làm,
các chuyện bất công,
thiên vị kỳ thị,
ban cho con người,
những điều van xin,
cầu nguyện khấn vái,
dù là thành khẩn,
đến mức độ nào,
nếu như người đó,
không đáng được nhận,
chẳng đáng được hưởng,
mà lại không ban,
cho bao người khác,
xứng đáng hơn nhiều!

Thực ra đúng là,
tất cả những chuyện,
vui buồn sướng khổ,
hỷ nộ ái ố,
những bước thăng trầm,
của cuộc đời này,
đều tùy thuộc vào,
nghiệp duyên mỗi người,
đều tùy thuộc vào,
phước báu mỗi người,
tạo được từ trước,
cho đến giờ này.
Chẳng hạn như là:
người nhiều phước báu,
cuộc đời của họ,
gặp nhiều may mắn,
gặp đủ thuận duyên,
tai qua nạn khỏi,
chuyện lớn hóa nhỏ,
chuyện nhỏ hóa không,
thường gặp người hiền,
thiện hữu tri thức,
cầu gì cũng được,
ít sóng gió hơn,
ít phiền não hơn,
ít cay đắng hơn,
ít ưu tư hơn,
ít khổ sở hơn,
ít gặp người xấu,
ít gặp hiểm nghèo,
dù họ đang sống,
bất cứ cảnh nào,
bất cứ nơi nào,
cũng vậy mà thôi.

Trái lại nên biết,
những người kém phước,
thường gặp xui xẻo,
gặp sự hiểm nghèo,
thiên tai địa tai,
thủy tai hỏa tai,
gặp người bất thiện,
tổn hữu ác đảng,
sa vào nghịch cảnh,
sóng gió thường xuyên,
khổ sở triền miên,
cầu gì chẳng được,
làm gì chẳng nên,
gia đạo ly tan,
tán gia bại sản,
người thân gặp nạn,
tai họa liên miên.
Những người ít phước,
lao đao lận đận,
khốn khổ như vậy,
bởi vì không biết,
tu nhân tích đức,
không chịu chăm lo,
tu tâm dưỡng tánh,
dù người tuổi già,
hay là tuổi trẻ,
lại còn tiếp tục,
tạo tội tạo nghiệp,
tranh chấp hơn thua,
mua gian bán lận,
bận tâm suy nghĩ,
những chuyện vu khống,
đặt điều cáo gian,
hại người lương thiện,
đòi tiền bồi thường,
vài ba triệu bạc,
giựt hụi quịt nợ,
làm ăn bất chánh,
lường người gạt bạn,
xúi giục mẹ cha,
thưa kiện người ta,
tán gia bại sản,
thân bại danh liệt,
sống dở chết dở,
thiệt là tội nghiệp!

Bởi vậy cho nên,
nhân dịp năm hết,
tết đến hằng năm,
chúng ta cùng nhau,
xét lại cái chuyện,
đi chùa đầu năm,
hay vào dịp khác,
làm sao thực hiện,
cho đúng chánh pháp,
làm sao cho được,
ích lợi thực tế,
có thể giúp đỡ,
cuộc đời hiện tại,
tất cả chúng ta,
chuyển hóa tốt đẹp,
được may mắn hơn,
được an lạc hơn,
được hạnh phúc hơn,
gặp được thiện nhơn,
chỉ đường dẫn lối,
tìm thấy chánh đạo,
biết cách tu tập,
theo đúng chánh pháp,
tu tâm dưỡng tánh,
tránh cảnh chen lấn,
giành giựt hái lộc,
đi chùa đầu năm,
giựt cho bằng được,
trái cam trái quít,
cành hoa nén hương,
để đem về nhà,
gọi là lấy hên,
đồng thời tránh được,
thất vọng não nề,
ngay khi nhận ra,
những người đi chùa,
cũng không khác gì,
những người ngoài đời,
nhiều khi tệ hại,
và nguy hiểm hơn,
cũng như tránh được,
thất vọng nãn lòng,
khi lời cầu nguyện,
không được đáp ứng,
linh nghiệm như ý,
và tránh được cảnh,
mê tín dị đoan,
tiền mất tật mang,
bởi vì tin tưởng,
ông bà thầy bói,
nói bậy nói bạ,
phong thủy địa lý,
hý ngôn đủ thứ,
tự nhận bừa bải,
linh nghiệm như thần,
trúng trăm phần trăm,
vân vân vân vân.

* * *
Trước hết cần biết,
quan niệm đi chùa,
không đúng chánh pháp,
là như thế nào,
nhưng có rất nhiều,
Phật Tử cũng như,
không phải Phật Tử,
hằng năm hằng tháng,
vẫn cứ đi chùa,
theo như cách đó.

1) Theo như tín ngưỡng,
ở trong dân gian,
người ta đi chùa,
van xin khấn vái,
xin xăm xin keo,
xem bói xem tướng,
xem ngày tốt xấu,
quan hôn tang tế,
cầu cơ điểm nhãn,
lên đồng lên cốt,
đốt hình nhân giấy,
đốt giấy vàng bạc,
đô la mỹ kim,
xe hơi nhà lầu,
cầu khẩn thần linh,
thỉnh bùa buôn bán,
tình duyên gia đạo,
thỉnh tượng thần tài,
dâng sớ cầu an,
cúng sao giải hạn.
Những việc làm này,
không thuộc phạm vi,
Phật giáo thuần túy,
nhưng đã từ lâu,
trộn lẫn vào trong,
sinh hoạt chùa chiền,
tạo nhiều ưu phiền,
tạo nhiều nghi kỵ,
xa rời Chánh Pháp,
lạc sang tà đạo,
cần phải chỉnh đốn.
Trong suốt cuộc đời,
năm nào cũng vậy,
chúng ta cũng gặp,
những chuyện may mắn,
vừa ý vui vẻ,
cùng với những chuyện,
kém may không tốt,
khó chịu buồn phiền!
Ngay cả cuộc đời,
các bậc thánh nhân,
các vị giáo chủ,
trên thế gian này,
cũng không ngoại lệ,
có người tán tụng,
tung hô khen ngợi,
bái phục qui ngưỡng,
đồng thời cũng không,
tránh khỏi rắc rối,
phỉ báng mạ lỵ,
vu khống cáo gian.
Thậm chí có vị,
bị bắt bỏ tù,
hay bị xử chết,
một cách thê thảm!
Tại sao như vậy?
Bởi vì dù là
thánh nhân hiền nhân,
bậc đại tu hành,
hay đã đắc đạo,
tất cả đều không,
ra ngoài nhân quả.

Nói một cách khác,
tất cả mọi người,
gây tạo nghiệp nhân,
do thân khẩu ý,
tốt có xấu có,
thiện có ác có,
lành có dử có,
hiền có hung có,
trong vô lượng kiếp,
hay trong kiếp này,
nếu biết ăn năn,
sám hối phát nguyện,
tu tâm dưỡng tánh,
giác ngộ chánh đạo,
giải thoát luân hồi,
tuy nhiên vẫn phải,
cam lòng đền trả,
nghiệp quả đã gieo,
mình làm mình chịu,
thế mới công bằng,
chí công vô tư,
bất tùy phân biệt,
chứ đừng lập đàn,
cầu được bình an,
uổng công vô ích,
đó là quịt nợ!
Khi nào nghiệp quả,
còn gọi nghiệp báo,
hay là quả báo,
đến ngày phải trả,
dù là thánh nhân,
dù là giáo chủ,
giáo phẩm chức sắc,
quyền cao chức trọng,
giàu sang danh vọng,
chí đến thứ dân,
bần cùng cố nông,
cũng không tránh khỏi!

Trong Kinh A Hàm,
Đức Phật có dạy:
Dù có lên non,
xuống biển vào hang,
nghiệp báo đã mang,
vẫn theo con người
như hình với bóng,
không ai có thể
tránh được thoát được.

Người ở thế gian
thường hay thở than:
"trời đã kêu ai,
thì người ấy dạ!",
hoặc là khẳng định
"lưới trời tuy thưa,
mà chưa ai lọt",
chính là nghĩa đó vậy.
Những chuyện vào chùa,
cúng chút tiền lẻ,
hoặc một nén hương,
hay một nãi chuối,
một ít trái cây,
một chút chè xôi,
ôi thôi khấn vái,
hái lộc đầu năm,
tay lắc ống xăm,
mong được quẻ tốt,
tình duyên gia đạo,
thảy đều cát tường,
thường muốn quẻ thượng,
cầu khẩn van xin,
khấn vái thần linh,
cầu cho trúng số,
cầu cho thắng kiện,
cầu cho hơn người,
đấu tranh thắng lợi,
cửu huyền thất tổ,
đều được siêu thăng,
nội ngoại hai bên,
ông bà cha mẹ,
con cháu trong nhà,
bình yên vô sự,
sung sướng tấm thân,
sức khỏe dồi dào,
tai qua nạn khỏi,
thi đâu đậu đó,
được làm quan to,
lúa gạo đầy kho,
giàu sang phú quí,
đem tượng thần tài,
vào chùa điểm nhãn,
cho được linh hiển,
phù hộ làm ăn,
buôn may bán đắt,
một vốn bốn lời,
nhứt bổn vạn lợi,
là những việc làm,
biểu tượng tâm tham,
vô bờ vô bến,
thỏa mãn tâm sân,
như hỏa diệm sơn,
tràn ngập tâm si,
vô minh muôn thuở!
Tham sân si là:
cội nguồn sanh tử,
cần phải dứt trừ,
chính nghĩa đó vậy.

* *
2) Bởi vậy cho nên,
trong Kinh Pháp Cú,
Đức Phật có dạy:
Hãy tự thắp đuốc,
tự mình bước đi.
Thắp sáng trí tuệ,
ngọn đuốc chánh pháp.

Điều đó nghĩa là:
để dẹp trừ dứt,
sinh hoạt mê tín,
hiện tượng dị đoan,
không đúng Chánh Pháp,
những người Phật Tử,
chân chánh phát nguyện,
tu tâm dưỡng tánh,
cầu mong giác ngộ,
chánh đạo giải thoát,
sanh tử luân hồi,
đều cần học hiểu,
thực hành Chánh Pháp,
ngay trong đời sống,
ngay tại thế gian,
tất cả mọi người,
có thể làm được.

Chánh Pháp tại thế gian,
không phải do trời ban,
chính mình phải cầu học,
để có thể áp dụng,
trong đời sống hằng ngày,
chứ không phải là những,
pho kinh điển để thờ,
không thể học hiểu được.

Đức Phật thị hiện,
thế giới ta bà,
giảng kinh thuyết pháp,
giúp đỡ chúng sanh,
thoát ly sanh tử,
phiền não khổ đau.
Tại sao chúng ta,
lại không tìm học,
để đặng áp dụng,
vào trong cuộc sống?

Trong các kinh sách,
chư Tổ có dạy:
Tu mà không học,
đúng là tu mù.
Học mà không tu,
đúng là tủ sách.

Người không phát nguyện,
tu tâm dưỡng tánh,
dĩ nhiên gặp nhiều,
phiền não khổ đau,
mỗi khi nghịch cảnh,
xảy đến thình lình.
Người đã phát tâm,
tu mà không học,
không hiểu Chánh Pháp,
chỉ thực hành suông,
những điều truyền miệng,
người trước làm sao,
người sau làm vậy,
làm sao tránh được,
những điều mê tín,
những chuyện dị đoan,
tam sao thất bổn,
xa rời Chánh Pháp,
gọi là tu mù.
Tam tạng kinh điển,
là do chư Phật,
chư vị Tổ sư,
truyền lại nhiều đời,
há chẳng ích lợi,
gì cả hay sao?
Nếu cứ đọc tụng,
mà vẫn không hiểu,
có thể tìm kiếm,
các vị chân tu,
các bậc tôn đức,
thực học giáo lý,
để xin nương tựa,
để xin chỉ dạy.
Làm được như vậy,
chúng ta tránh khỏi,
những kẻ ngoại nhân,
lợi dụng hình tướng,
tu sĩ Phật giáo,
lẫn lộn vàng thau,
hướng dẫn những điều,
huyễn hoặc huyền bí,
mê tín dị đoan,
xa lìa chánh đạo,
chẳng ích lợi gì!
Những người thu thập,
tam tạng kinh điển,
nghiên cứu từ chương,
tìm phương phô trương,
sở học tri kiến,
cũng chẳng ích lợi,
cho việc thoát ly,
sanh tử luân hồi,
giác ngộ giải thoát,
chỉ là tủ sách,
hay là đãy sách!

Chúng ta không nên,
quan niệm sai lầm,
xem chùa như là,
cái viện dưỡng lão,
dành riêng cho người,
gần đất xa trời,
hay là dành cho,
những người chán đời,
thất bại trên đường,
công danh sự nghiệp,
hoặc là dành cho,
những người chán chê,
tình duyên gia đạo,
ở ngoài thế gian.
Bởi vậy cho nên,
những người phát tâm,
thay đổi hình tướng,
vào tu trong chùa,
bất cứ tuổi nào,
cần nên phát nguyện,
ly thân cắt ái,
dứt bỏ hồng trần,
lìa tam giới gia,
xuất phiền não gia,
tự độ độ tha,
tự giác giác tha,
giác hạnh viên mãn,
cầu học Chánh Pháp,
tu tập tinh tấn,
đến ngày giác ngộ,
thấu rõ biết rành,
cốt tủy đạo Phật,
chứ đừng giải đãi,
tụng kinh ê a,
lóc cóc leng cheng,
như phường hát dạo,
chuyên chú hình thức,
cúng kiến lễ lạy,
cúng sao giải hạn,
quanh năm suốt tháng,
cầu này cầu kia,
vía ông vía bà,
thực là uổng phí,
cả cuộc đời này,
lại còn dẫn dắt,
bao người lầm lạc,
vì tin màu áo,
sa vào tà đạo,
xa rời chánh đạo,
biết đến bao giờ,
quày đầu tỉnh ngộ?

Trong Kinh A Hàm,
Đức Phật có dạy:
Không nên tin ngay,
tất cả những gì,
người xưa đã nói,
tất cả những gì,
người có thế lực,
đạo cũng như đời,
tất cả những gì,
người bề trên nói,
tất cả những gì,
nhiều người tin theo,
có ghi trong sách.
Chỉ nên tin theo,
những gì có thể,
kiểm nghiệm lại được,
đúng với chân lý,
đúng với lẽ thực,
thông qua trí tuệ,
sáng suốt thông minh,
thấy có ích lợi,
cho bản thân mình,
và cho mọi người.
Để tránh sai lầm,
cho chính chúng ta,
không tin mù quáng,
bất cứ lời nào,
do những người có,
thế lực ngoài đời,
cũng như thế lực,
trong các tổ chức,
tôn giáo thế gian,
chúng ta nhứt định,
phải biết suy xét,
tư duy nghiền ngẫm,
đối chiếu so sánh,
với tam tạng kinh,
tạng luật và luận.
Hơn như thế nữa,
ở trong Phật giáo,
có "Tam Tuệ Học",
tức ba môn học,
giúp đỡ con người,
phát sanh trí tuệ,
thông minh sáng suốt,
phân biệt rõ ràng,
chánh đạo tà đạo,
có được chánh kiến
và được chánh tín,
tránh được những điều
mê tín dị đoan.
Ba môn học đó
là: "Văn, Tư, Tu".

Trước hết cần phải,
lắng nghe lời giảng,
của thiện tri thức,
phải học kinh điển,
và những lời dạy,
của chư tôn đức.
Xong rồi sau đó,
chúng ta phải biết,
tư duy quán chiếu,
suy nghĩ nghiền ngẫm,
một cách kỹ lưỡng,
một cách tường tận,
một cách thấu triệt.
Khi nào nhận thấy,
những lời dạy đó,
quả thực đem lại,
an lạc cho mình,
ích lợi cho người,
chúng ta bắt đầu,
tu tập thực hành,
vào trong đời sống,
hằng ngày hằng giờ,
của chính chúng ta.

Chẳng hạn như là:
những lời tiên tri,
về ngày tận thế,
đã từng làm cho,
bao nhiêu con người,
nhẹ dạ dễ tin,
nơi đấng thần quyền,
phải chịu điêu đứng,
tự sát tập thể,
trước năm 2000,
biến động vừa qua.
Chẳng hạn như là:
những chuyện phép lạ,
chữa người tê liệt,
đi đứng lại được,
chữa cho người mù,
thấy được ánh sáng,
đều là những chuyện,
không tưởng hoang đường,
chẳng ích lợi gì,
cho việc phát nguyện,
tu tâm dưỡng tánh,
chỉ đem lợi nhuận,
một cách kếch xù,
cho người lợi dụng,
đức tin mù quáng,
của mọi người khác.
Tại sao như vậy?
Bởi vì nếu thực,
có vị thánh nhân,
cứu cho người chết,
sống trở lại được,
thử hỏi sau này,
nếu như người đó,
lại chết lần nữa,
ai cứu họ đây?
Lần này chết thiệt!
Không sống lại đâu!
Tại sao như vậy?
Bởi vì cái vị,
gọi là thánh nhân,
đã bị người khác,
giết chết mất rồi,
ai mà cứu nổi!

Khi Phật tại thế,
có một thiếu phụ,
khẩn cầu Đức Phật,
cứu sống người con,
mới vừa qua đời.
Đức Phật bèn bảo,
người thiếu phụ đó,
đi xin đem về,
cho được hột cải,
từ gia đình nào,
không bao giờ có,
người đã qua đời.
Dĩ nhiên rõ ràng,
người thiếu phụ đó,
không sao tìm được,
hột cải như vậy.
Bởi vậy cho nên,
người thiếu phụ đó,
liền giác ngộ được,
"lý lẽ vô thường"
của cuộc đời này:
không có cái gì,
ở trên đời này,
tồn tại vĩnh viễn,
không có người nào,
trẻ mãi không già,
sống mãi không chết,
dù cho người đó,
là bất cứ ai,
giàu sang nghèo hèn,
thông minh ngu dốt,
quan chức thường dân,
tu sĩ tín đồ,
da đen da trắng,
da vàng da đỏ,
khỏe mạnh đau yếu,
tất cả cũng đều,
có ngày bắt buộc,
từ giã cuộc đời,
hai bàn tay trắng,
chỉ đem theo được,
cả khối nghiệp báo,
đã gây tạo nên,
trong suốt cuộc đời,
sống trong vô minh,
không biết chánh đạo.
* * *
Tóm lại nên biết,
khi gặp thuận cảnh,
nhiều sự may mắn,
cuộc đời an vui,
chúng ta nên biết,
đang hưởng phước báo,
tiếp tục cố gắng,
tu tâm dưỡng tánh,
tạo thêm phước báu,
tránh xa các việc,
tạo tội tạo nghiệp,
dù trong hành động,
dù trong lời nói,
hay trong ý nghĩ.
Khi gặp nghịch cảnh,
khốn khổ khó khăn,
cuộc đời sóng gió,
chúng ta biết ngay,
mình kém phước báo,
phải trả nghiệp báo,
không thể tránh khỏi,
không thể cầu an,
cho nên quyết chí,
tu tâm dưỡng tánh,
giúp đời giúp người,
làm việc phước thiện,
nhứt định chuyển nghiệp,
chuyển hóa tâm tánh,
tu theo chánh đạo,
từ bi hỷ xả,
bình tĩnh thản nhiên,
trước mọi sóng gió,
của cuộc đời này.

Chúng ta quyết tâm,
từ đây trở đi,
đầu năm đi chùa,
chánh tín lễ Phật ,
mỗi năm một lần,
hay thường xuyên hơn,
mỗi tháng mỗi tuần,
đều với mục đích:
cầu học chánh pháp,
gần gũi bạn đạo,
thảo luận pháp tu,
thọ bát quan trai,
hành thập thiện giới,
trao đổi kinh nghiệm,
đọc kinh đọc sách,
thỉnh băng thuyết pháp,
đem về tu học,
tinh tấn thường xuyên,
nội cần khắc niệm,
tạo được công phu,
ngoại hoằng bất tranh,
tạo nên đức độ,
bên trong tĩnh lặng,
bên ngoài an vui,
cho đến một ngày,
giác ngộ chân lý,
giải thoát phiền não,
chẳng thấy khổ đau,
mặc dù vẫn sống,
ngay tại thế gian,
như bao người khác,
thân tâm tự tại,
an lạc hạnh phúc,
cư trần lạc đạo.






Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
24/09/2015(Xem: 8334)
Khi chung ta bước đi, với tâm địa Từ Bi rộng mở mang theo, làm tất cả những việc lành cho tất cả chúng sanh là chúng ta đã mở rộng biên giới hòa bình ngày một dang rộng. Những bước chân ấy đáng gọi là những bước chân Từ Bi. Có những điều khi tiếp cận với Phật học, dù với bất cứ trình độ nào, chưa chắc một sớm một chiều mình hiểu ra ngay hết được. Đôi khi phải đợi đến nhiều chục năm sau, thậm chí gần hết đời người rồi mình mới bừng tỉnh về một điều giác ngộ chưa trọn vẹn. Khi xưa mình nghe kể chuyện đức Phật Đản sanh, dưới bảy bước đi đều nở bảy đóa hoa sen. Thần thoại, truyền thuyết hay hư cấu cho lung linh một sự kiện về đấng giáo chủ của mình; hãy cứ để đó. Sau này ghé sang Làng Mai, chạm phải những công án Thiền của Ngài Nhất Hạnh, chúng ta bắt gặp câu “Từng bước nở hoa sen” thì mới vỡ òa nhiều khúc mắc ngày xưa còn kẹt lại trong một góc tối của tâm trí nào đó.
24/09/2015(Xem: 9059)
Sau tiếng ré lên của cái chuông bấm ở cửa, mình đã nghe tiếng chìa khoá lách cách tra vào ổ khoá của cánh cửa song sắt ở bên trong. Một chập sau, cánh cửa "Trại Cải Huấn Thanh Thiếu Niên Phạm Pháp" (Jugendarrestanstalt, viết tắc là JAA) tại Nienburg nặng chịt, rít lên tiếng sắt cọ sát trên thềm xi măng, mở ra. Bước chân vào, vài câu chào hỏi trao đổi với cô giám thị. Cửa chánh đóng lại. Cô giám thị hướng dẫn mình đi qua một cánh cửa song sắt. Lại đứng chờ. Sau khi nó lại khóa lại, thì có cảm giác "mình đi lại tự do trong Trại Cải Huấn" được rồi! Tiến về phòng điều hành. Từ bên ngoài đã thấy ông "xếp" trại, ba nam giám thị, cô giám thị khi nãy; hai cô tác viên xã hội (Sozialarbeiterin) và thêm bốn thiếu nữ lạ mặt. Ông "xếp" trại giới thiệu bốn thiếu nữ lạ ấy cũng là tác viên xã hội ở các tù khác đến tìm hiểu kinh nghiệm hướng dẫn của "thầy JIP" - tên là Diệp, nếu đọc không bỏ dấu và theo âm Đức thì là "Dieb"; mà "Dieb" có nghĩa là "kẻ cắp"! Còn nếu phát âm tương đối đúng thì v
24/09/2015(Xem: 9072)
Phải nói thật rằng câu hỏi này lởn vởn trong đầu tôi nhiều lần, trong nhiều năm nay. Nghe có vẻ ngớ ngẩn. Mà cũng có thể tôi là người ngớ ngẩn. Ai đời lại đi đặt câu hỏi mà đứa trẻ học tiểu học cũng có câu trả lời thế này. Ấy thế mà khi ngồi tĩnh tâm tại ngôi chùa lớn nhất thế giới Borobudur, Indonesia câu hỏi này lại hiện về. Hiện về 1 cách rất rõ nét. Đây là lần thứ 3 câu hỏi này làm tôi trăn trở nhiều nhất.
21/09/2015(Xem: 7640)
Hơn hai ngàn năm trăm năm trước, Tu Bồ Đề kính cẩn đặt câu hỏi với Phật: “...Làm thế nào để an trụ tâm, làm thế nào để hàng phục tâm?” (Vân hà ưng trụ, vân hà hàng phục kỳ tâm?) thì Phật bảo rằng không có gì khó cả, các vị Đại Bồ tát đều hàng phục tâm bằng cách như vầy... như vầy...
21/09/2015(Xem: 10134)
Tôi gặp bà lần đầu tiên trong một phiên họp thường niên lãnh đạo Hiệp hội Xuất bản ASEAN diễn ra tại thủ đô Jakarta, Indonesia. Ấn tượng của tôi về lãnh đạo cao cấp này của Hội sách lớn nhất thế giới được tổ chức thường niên vào tháng 10 là bà rất nhẹ nhàng, rất Á đông, rất gần gũi, rất nhiệt tình. Tôi cũng đặc biệt vui khi bà quan tâm đến Việt Nam. Trong phiên hop này, lãnh đạo Hội xuất bản Việt Nam bận hết nên tôi làm trưởng đoàn. Vậy là ngoài các buổi làm việc chung với trưởng đoàn của Hội xuất bản các nước ASEAN tôi có các buổi làm việc riêng với nhiều lãnh đạo các nhà xuất bản các nước, trong đó có buổi làm việc với bà Claudia Kaiser, người phó chủ tịch rất hiểu biết và thân thiện của Frankfurt Book Fair.
21/09/2015(Xem: 8043)
Khi mẹ mất, con cháu đều có mặt. Qua bao năm đất nước tang thương, chiến tranh khốc liệt, đàn con gian truân trong nghề nghiệp, trong lửa đạn. Có đứa vào quân đội, cả năm không thấy mặt, không biết ở đâu. Sau chiến tranh mọi người đều tìm cách bỏ xứ. Đứa trước đứa sau, qua rừng qua biển, rồi tìm cách đưa được mẹ sang xứ người. Các con làm lại sự nghiệp, các cháu học hành giỏi, thành công vượt mực. Ai cũng nói: “Cụ thật có phước, cụ thật có phước, được Phật độ !”
20/09/2015(Xem: 11832)
Tâm dục được xếp hạng trên tất các sắc tướng, gọi là Sắc Dục, mà mê đắm sắc đẹp đưa đến dâm dục là điều cốt yếu của mọi vấn đề trên cõi Ta Bà. Tham dâm dục thôi thúc trong lòng khiến con người phải hành động để được thoả mãn ham muốn. Khi cái luồng chân khí ái dục này dâng lên thì si ái tình, khi đi xuống thì tham nhục dục. Mà ái có nghĩa là yêu thương thuộc tình cảm với cảm giác cao thượng. Dục là sự si mê, thèm khát thể xác. Khi dâng lên khi hạ xuống bất thường thì bị tẫu hỏa nhập ma, thất tình lục dục, đưa đến hành động phi luân, phạm pháp, vô đạo tai hại khôn lường cho mình cho người. Dục gồm có lục dục hay ngũ dục. Lục dục là sự ham muốn của sáu căn đối với sáu trần; mắt thích nhìn những sắc đẹp, tai thích nghe âm thanh êm dịu, mũi thích ngửi mùi thơm, lưỡi thích nếm những vị ngon, thân thích đụng chạm êm ái, ý thích nghĩ tới tham si. Ngũ dục là năm thứ ham muốn của người đời không dễ gì loại bỏ. Kinh Phật nói về Ác Dục, Niệm Dục: Chư hiền, nếu ai có ác dục, niệm dục th
20/09/2015(Xem: 8416)
Hôm nay là ngày rằm, từ sáng sớm bà chủ đã ngỏ lời: “Hây, tối nay kính mời khách thưởng trà ngắm trăng với chúng tôi trong vườn nhà”. Khi ráng chiều vừa tắt, bà chủ đưa cho khách bộ Yukata (Kymono mặc mùa hè), một đôi tất trắng, một đôi guốc xỏ ngón và một cái hoa vải màu hồng nâu. Thấy khách lúng túng, hiểu ý, bà chủ ân cần hướng dẫn khách sử dụng từng loại. Bà chủ chia sẻ: “Mặc Yukata khó nhất và đẹp nhất là cái đai quanh thắt lưng”. Miệng nói, tay làm, bà giúp khách hoàn thiện cái đai này. Bà lại hồn hậu: “Búi tóc kiểu Nhật cũng không là việc dễ”, rồi đôi tay bà chủ thoăn thoắt, chỉ mươi phút mái tóc của khách đã được búi cao lại còn giắt thêm cái hoa vải màu hồng nâu sau gáy. Khách nghĩ, mình đã tươm tất lắm rồi, thì nghe bà chủ nhắc khéo: “Mặc Yukata đôi chân phụ nữ phải được bọc trong đôi vớ trắng và bước đi với đôi guốc xỏ ngón”. Nghe lời, khách mang vớ, mang guốc rồi thử bước đi; xong, khách thầm nhủ “mang đôi guốc này mà không té là điều kỳ diệuJ”.
19/09/2015(Xem: 9394)
Đối với người Phật tử, dù ở bất cứ phương trời nào, không phải chỉ mùa Vu Lan mới là thời điểm để người con Phật thể hiện lòng báo đức tri ân. Ân Chư Phật, ân Thầy Tổ, ân cha mẹ giáo dường, ân đàn na thí thí, ân xã hội, ân chúng sanh …. mà ân kia, đức đó phải luôn phát nguyện bằng thiện tâm: “Hiếu là độ được song thân, Nhân là cứu vớt trầm luân muôn loài” Theo tinh thần trùng trùng duyên khởi trong kinh Hoa Nghiêm thì muôn người, muôn loài đều thầm lặng vì nhau mà sinh diệt. Cái này vì cái kia mà hiện hữu, cái này ra đi để cái kia tồn tại. Như lá rụng mà thực chẳng diệt, vì lá lại thành đất nuôi cây. Như mây tụ lại mà thực chẳng tan, vì mây chỉ chuyển hóa thành mưa tươi mát, tắm đẫm cỏ nội hoa ngàn ….
18/09/2015(Xem: 9006)
Được sự đồng ý của tác giả, Cư sĩ Diệu Nhung, Cư sĩ Tâm Thành và các Cư sĩ khác hùn phước ấn tống và gửi tặng sách GIA TÀI CỦA NGƯỜI TỈNH THỨC (Thực tập Kham nhẫn) phiên bản tiếng Việt cho các đối tượng sau đây: 1. Đọc giả người Việt đang sinh sống và làm việc trong khu vực VIỆT NAM và CHÂU Á. 2. Các tu sĩ Phật giáo người Việt không phân biệt tông phái. 3. Các cư sĩ người Việt đang nghiên cứu và thực tập Phật giá
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]