Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

04-Cuộc đời tương đối mà!

01/02/201108:04(Xem: 5903)
04-Cuộc đời tương đối mà!


CÀNH LÁ VÔ ƯU
Thích-Thanh-Từ

Cuộc Ðời TươngÐối Mà!

Hầuhếtchúng ta đều mắc phải cái bệnh "đòi hỏi tuyệt đối".Giàu thì mình muốn giàu hơn tất cả, sang cũng muốn mìnhsang hơn tất cả, cho đến đẹp, giỏi, khen, đều là hơntất cả. Có cái gì thua kém hơn người là buồn, tủi, bựcdọc không hài lòng. Do đó cộc sống không thấy có hạnhphúc, vì thấy mình còn thua người này kẻ nọ. Hoặc thantrách người thân của mình sao không được như ý mình muốn.Những nỗi khổ đau buồn bực ấy đều do không hiểu "cuộcđời tương đối mà!"

MuônVậtTương Ðối

Muôn vật hiện có trên cõi đờiđều là tương đối. Người thì có nam nữ, loài vật thìcó giống đực giống cái, điện thì có điện âm điện dương...,từ lý tương đối ấy mà sinh ra vạn vật. Chính lý tươngđối là gốc sinh hóa vô cùng vô tận. Nếu chúng tách rờisự vật ra từng phần đơn độc thì sự sinh hóa phải dừnglại. Cuộc sống chúng ta là tương quan trong cái đối nghịch,sinh trưởng trong cái chống chọi. Như thế, làm sao chúng tatìm ra sự bình an hoàn toàn, sự hạnh phúc miên viễn trongcuộc đời tương đối. Sáng suốt nhất là chúng ta nhìn sựtương đối là lý đương nhiên, không oán hờn, không tráchcứ trước mọi sự việc trái ngược nhau. Ðồng thời chúngta khéo lợi dụng lý tương đối tạo thành những công nănghữu ích cho con người. Thí dụ nước với lửa là đối nghịchnhau, song nếu chúng ta khéo dùng lửa đun sôi nước để nấuchín các thức ăn... Ðiện âm điện dương đối nghịch nhau,chạm nhau làm tóe sáng, con người khéo lợi dụng sự phátsáng đó tạo ra vô số công năng của điện... Chừng đóchúng ta mới thấy sự hữu dụng của nước với lửa, củađiện âm điện dương phục vụ cho con người một cách hữuhiệu. Chúng ta cứ sợ nước dập tắt lửa, tách rời xa chúngthì chúng ta có được lợi gì trong cuộc sống. Như vậy,chúng ta không sợ sự đối nghịch của vạn vật mà chỉkhéo léo sử dụng sự đối nghịch một cách hữu hiệu trongcuộc sống của chúng ta.

BảnThân Con Người Tương Ðối

Con người có hai phần vật chấtvà tinh thần, cả hai phần này đều là tương đối.
Phần vật chất:- Ðức Phậtphân tích một cách đơn giản, trong cơ thể con người do bốnthứ cất tạo thành. Phần cứng rắn là đất, phần thấmướt là nước, phần nóng ấm là lửa, phần chuyển độnglà gió. Bốn phần này chung họp làm thân con người và tồntại một thời gian. Nếu thiếu một trong bốn phần, thânnày phải bại hoại. Bản thân bốn phần này lại đối nghịchnhau, nước chống với lửa, gió chọi với đất. Cho nên trongkhi nước thạnh lửa suy thì sanh ra bệnh lạnh, hoặc phù thủng...,ngược lại khi lửa thạnh nước suy thì sinh ra bệnh nóng,nhức đầu..., khi gió thạnh đất suy thì sanh ra bệnh đaunhức khắp thân thể; khi đất thạnh gió suy thì sanh ra bệnhtê liệt, khó thở ... Do đó mang thân này suốt đời chúngta phải điều hòa tứ đại. Tứ đại được điều hòa thìthân mới mạnh khỏe an ổn, ngược lại thì đau ốm liênmiên. Bốn thứ đối nghịch này, chúng ta có nên hủy hoạinó không, nếu chúng ta còn muốn sống? Hay mỗi ngày chúngta cố gắng điều hòa chúng để cho thân này được an ổn.Bốn thứ thù nghịch nhau, song nhờ bốn thứ mà thân này mớitồn tại. Như thế chúng ta sợ ghét sự chống đối hay khéođiều hòa sự chống đối ? Muốn thân này còn sống đượcan ổn, không cách nào hơn chúng ta phải biết điều hòa chúngmột cách thích hợp. Ðó là khôn ngoan, là biết sống.
Phần tinh thần- Nội tâmchúng ta đối nghịch nhau rất là phức tạp. Ở đây tạmchia tâm niệm thiện và tâm niệm ác đối nghịch nhau. Songkhi niệm ác dấy lên thì niệm thiện ẩn đi, ngược lạikhi niệm thiện dấy lên thì niệm ác trốn mất, hai thứ đốinghịch nhau mà không đồng thời. Vì thế nếu biết tu, chúngta luôn luôn nuôi dưỡng niệm thiện thì niệm ác lặn mất.Nếu người không biết tu, cả ngày dung chứa niệm ác thìniệm thiện không bao giờ xuất hiện. Nuôi dưỡng niệm thiệnlà bậc hiền thánh, dung chứa niệm ác là kẻ bạo tàn. Chúngta trọn quyền tạo lập cho mình một chỗ đứng vào hàngthánh thiện, cũng chính chúng ta tự bước lùi vào hang quỉ,chỗ thú cầm. Không ai bắt buộc, không ai lôi kéo chúng tađến nơi này hay nơi nọ. Do đó, đức Phật dạy chúng tatu quán từ bi để trừ tâm sân hận, quán tứ niệm xứ đểdiệt mê lầm, hoặc niệm danh Phật để át tạp niệm...Chúngta có đủ khả năng làm hiền thánh, chúng ta cũng có đủchủng tử ngạ quỉ súc sanh. Bởi vậy nói tu tâm là chúngta khéo điều phục những tâm niệm xấu ác, nuôi dưỡng nhữngtâm hiền thiện. Khi sắp lâm chung, những tâm niệm nào mạnhsẽ lôi chúng ta đến cảnh tương xứng. Vì tâm niệm là gốccủa luân hồi sanh tử.

Thế thì bản thân chúng ta từ vậtchất đến tinh thần đều là tương đối. Như vậy chúngta không ưa tương đối, chạy trốn tương đối có đượckhông? Quả là điều dại khờ. Chúng ta phải khôn ngoan sángsuốt tìm mọi cách điều hòa cho thân an ổn, chinh phục chotâm hiền thiện. Ðây là việc làm của người biết sốngvà sống vươn lên.

TươngQuan Mình và Người

Trong cuộc sống tương quan giữamình và mọi người chung quanh, hầu hết chúng ta mắc phảicái bệnh "cầu toàn trách bị". Chúng ta đòi hỏi nhữngngười sống gần với mình phải vẹn toàn một trăm phầntrăm như ý mình muốn, phải đầy đủ hoàn toàn những điềunhư tâm mình tưởng. Nếu những người thân chỉ được támchục phần trăm trong sự đòi hỏi của mình, sống gần gũilâu ngày còn hai chục phần trăm bất như ý sẽ làm chúngta sinh bực bội chán chường. Sao chúng ta không đặt lạicâu hỏi, chính mình có được vẹn toàn mọi điều như ýmình muốn chăng? Hẳn là không. Mình đã không được vẹntoàn, sao lại đòi hỏi người phải vẹn toàn, có phải làbất công, phi lý không? Ngày xưa ở các nước Ðông Phươngquyền lập gia đình cho con cái là ở cha mẹ, cha mẹ địnhsao con cái phải nghe vậy. Do đó có những gia đình vợ chồngkhông hòa thuận vì không cảm thông nhau, nên đi đến đổvỡ ly dị. Ngày nay ở các nước Tây phương con cái đượcquyền chọn lựa đôi bạn cho mình. Họ có quyền sống gầnvới người họ chọn lựa một thời gian, sau mới quyết địnhthành đôi bạn hay không, cha mẹ không được quyền can thiệpđến đời tư của họ. Thế mà khi đã thành đôi bạn, lạivẫn ly dị nhau. Ðây là lỗi tại ai, cha mẹ ép buộc chăng?Quả thực đây là cái bệnh đòi hỏi vẹn toàn một trămphần trăm theo ý mình muốn. Bởi không có ai thỏa mãn sựđòi hỏi cuả mình nên từ thân biến thành sơ. Thế là cứly dị mãi, đến già trở thành người cô độc. Chúng ta cònthêm lắm bệnh. Nào là muốn ai cũng khen mình, có người chêlà buồn khổ. Muốn mọi người gần mình phải tuyệt đốituân theo sự sắp đặt của mình, nếu 80 điều họ theo, còn20 điều họ chống là giận dữ bực tức. Ðòi hỏi ngườithân của mình phải tốt tuyệt đối, nếu họ có vài ba điềuxấu liền chán nản muốn lánh xa. Ðến tình cảm thương yêucũng vậy, bắt buộc người thân của mình phải thương yêumình tuyệt đối, nếu bị chia xẻ cho ai, dù người ấy làthân thuộc hợp lý, vẫn cảm thấy buồn. Chính vì lòng thamđòi hỏi quá đáng, khiến người chung quanh chúng ta muốntừ từ xa lánh chúng ta. Ðây là vì không biết cuộc đờilà tương đối, nên không thông cảm với mọi người chungquanh, kết quả tự chuốc lấy khổ đau cô độc. Trái lại,chúng ta tập nhìn mọi người với cặp mắt tương đối,không đòi hỏi quá đáng, dễ thông cảm tha thứ nhau. Ðượcvậy đời sống sẽ vui tươi, người thân đông đảo, dễdàng đạt được hạnh phúc.

BệnhThần Tượng

Chúng ta dễ mắc cái bệnh "thầntượng hóa"người mình quí kính. Người mình quí kínhlà thánh thiện một trăm phần trăm, nếu thân cận một thờigian, thấy vị ấy còn một vài điều phàm tục, "thần tượng"liền sụp đổ. Từ đây ta sanh tâm khinh nhờn cho đến bấtmãn, không còn tin tưởng vào ai nữa. Ðây là một trọng bệnh,khiến ta tự cao ngạo mạn, mất lòng tin. Khi trước do tinvào bậc thầy thánh thiện nên ta tinh tấn tu hành, nay mấtlòng tin rồi sinh bê tha hư đốn. Tại sao ta không sét nétkỹ càng xem, bậc thầy kia hơn mình bao nhiêu phần? Nếu tacó hai mươi phần trăm tốt, vị thầy có đến bốn chụcphần trăm hay sáu chục phần trăm thì đáng cho mình học tậptheo. Vì vị ấy đã tốt hơn mình gấp đôi gấp ba, còn chêtrách nỗi gì. Bởi vì vị thầy chưa phải là thánh, là Phậtlàm sao hoàn toàn thánh thiện được. Chúng ta cảm thông vịấy đang tu, là còn những cái dở để sửa, để bỏ. Bồtát vẫn còn vi tế vô minh, nếu sạch hết vô minh là thànhPhật. Biết rõ cái tốt của những vị mình quí kính là tươngđối, thì mình kính tin vừa phải, chừng mực, không "thầntượng hóa". Nếu vị thầy ấy còn vài nét phàm tục, mìnhcũng cảm thông tha thứ, vì đây là người đang tu đang tiến,đừng đòi hỏi qúa đáng. Hoặc giả ngày xưa mình tin vàovị thầy gần như tuyệt đối, vị ấy dạy gì mình cũngcố gắng làm cho được, nhờ đó trên đường tu mình tiếnbộ vượt bực. Nay mình mất lòng tin ở vị thầy ấy, sinhtâm lui sụt, đây là điều sai lầm. Tại sao mình không nghĩ,ta tu là ta tiến, thầy tu thì thầy tiến. Ðâu phải thầytu hay ta mới tiến, thầy tu dở ta bị lùi. Phải tin vào mình,phải trông cậy vào mình. Phật dạy" "các ông phải tựthắp đuốc lên mà đi", lại "các ông phải làm cồnđảo cho mình". Thế nên, không vì "thần tượng sụp đổ"mà ta lùi bước. Chính chúng ta phải nhìn các bậc thầy quíkính vẫn là tương đối thì chúng ta khỏi chới với khi trôngthấy vài nét phàm tục của các ngài.

LụcTổ Dậy 36 Pháp Ðối

Trong kinh Pháp Bảo Ðàn, Lục Tổdạy đệ tử sau này có ai hỏi đạo nên dùng 36 pháp đốiđể trả lời thì không sai tông chỉ nhà thiền. Nếu ngườihỏi "có" lấy "không" đáp, người hỏi "sáng" lấy "tối"đáp... Tại sao ? Vì nhơn "không" mà lập "có". Bởi có cái"không" mới thành lập cái "có" không có cái "không" thì cái"có" cũng chẳng thành. Ngược lại, nhơn cái "có" mà lậpcái "không", nếu chẳng có cái "có" thì cái "không" cũng vônghĩa. Ðến cái sáng cái tối cũng thế. Do tối mới lậpsáng, nhơn sáng mới nói tối. Hai cái nương nhau mà thành,không có thật pháp. Tất cả sự vật ở thế gian đều làđối đãi nhau mà lập, không có một pháp nào là thật. Thếmà chúng ta chấp thật pháp, thật ngã, tăng trưởng si mê,chìm đắm mãi trong biển luân hồi sanh tử. Dưới con mắtcủa Phật của Tổ thấy rõ các pháp như huyễn như hoá, nêncác ngài vượt ra ngoài vòng sanh tử luân hồi. Thấy tấtcả là tương đối hư giả là cái thấy của người giácngộ.

ChỉTâm Chẳng Sanh Diệt Là Tuyệt Ðối

Tuy nhiên trong cuộc đời tươngđối vẫn có cái tuyệt đối mà ít ai biết đến. Chúng tacứ quen chạy theo hình sắc thanh âm là những thứ vô thườngsanh diệt. Ngay cái sanh diệt lại đòi cho được tuyệt đối,quả là chúng ta bắt bóng mò trăng. Làm gì có, ngay cái đốiđãi sanh diệt lại là tuyệt đối vô sanh. Khi chúng ta vươntheo hình thức sự vật mà mong được cái chẳng sanh chẳngdiệt. Hãy nghe hai câu sau trong bài kệ trình kiến giải lênNgũ Tổ của người cư sĩ họ Lư: "Xưa nay không một vật,chỗ nào dính bụi nhơ" (Bản lai vô nhất vật, hà xứnhạ trần ai). Có vật là vô thường sinh diệt, dù cứng nhưchất kim cương, cũng là vô thường sinh diệt. Chỉ có tâmthể không hình tướng, không dấy động mới là bất sanhbất diệt. Tâm thể vượt ngoài đối đãi hai bên, vĩnh hằngbất biến. Vừa thấy hai bên là mất tâm thể rồi. Cho nênTổ Tang Xán kết thúc bài Tín Tâm Minh nói "Tín tâm bấtnhị, bất nhị tín tâm" (Tin tâm không còn hai, không haitin tâm). Có hai còn là đối đãi, không hai thì đối đãivới cái gì. Chính cái vượt ngoài đối đãi mới thực sựlà tuyệt đối. Cái tuyệt đối có sẵn nơi mọi người chúngta không phải tìm kiếm bên ngoài. Biết buông tâm niệm đốiđãi, sống bằng thể không đối đãi là người giác. Tráilại, chạy theo tâm niệm đối đãi sinh diệt, quên mất tâmthể bất sanh bất diệt là ngưòi mê.

KếtThúc

Con người chán nản ê chề khổđau cùng cực, vì những thần tượng của mình dựng nên đềusụp đổ. Còn tin tưởng vào đâu khi lòng tin tuyệt đốidồn vào các thần tượng, mà nay tan vỡ hết rồi. Ðây làngười mắc bệnh thiếu thực tế, lúc nào cũng lý tưởnghoá kẻ khác. Khi lý tưởng bị thất vọng, họ đâm ra thùghét chán chường. Cộng thêm bệnh đòi hỏi quá đáng, khiếnhọ không bằng lòng một ngừơi nào trên thế gian này. Thếlà, họ đang sống trong đông đảo quần chúng, mà cảm thấynhư mình lang thang trong bãi sa mạc. Sự chán đời tuyệt vọngcủa những người này phát xuất từ sự gởi gấm tất cảlòng tin vào kẻ khác. Chúng ta phải khôn ngoan nhìn mọi ngườibằng con mắt tương đối, tin mọi người bằng lòng tin giớihạn. Chúng ta sẽ bằng lòng trong đời sống này, và sẽ cảmthông tha thứ những người thân với mình khi họ phạm phảisai lầm. Chúng ta còn chỗ nương dựa duy nhất là chính mình.Mình sẵn có hòn ngọc quí mà lâu nay đã quên lãng.Hôm naykhéo tay mở chéo áo lấy hòn ngọc đem ra dùng, đời ta sẽhạnh phúc biết là bao!




Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
22/01/2021(Xem: 5536)
Ngày 11 tháng 11 năm 2020 là sinh nhật thứ 199 năm của nhà văn và triết gia người Nga Fyodor Dostoevsky [sinh ngày 11 tháng 11 năm 1821]. Các tác phẩm văn học của ông đã khám phá tâm lý con người trong bầu không khí chính trị, xã hội và tâm linh bất an của xã hội Nga vào thế kỷ thứ 19, và liên hệ tới nhiều chủ đề triết học và tôn giáo, theo www.en.wikipedia.org
22/01/2021(Xem: 6848)
Emily Elizabeth Dickison là nhà thơ lớn của Mỹ trong thế kỷ thứ 19. Bà sống phần lớn cuộc đời trong cô độc. Bà chưa bao giờ lập gia đình. Bà có sở thích mặc đồ trắng và rất hiếm khi tiếp khách, thậm chí bà còn không muốn ra khỏi giường ngủ. Bà đã để lại một di sản văn học đồ sộ với khoảng 1,800 bài thơ. Bà có ảnh hưởng rất lớn đối với nền văn học Mỹ và được xem là nhà thơ tiền hiện đại tiên phong, theo www.en.wikipedia.org.
21/01/2021(Xem: 7073)
Nhân ngày Lễ Phật Thành Đạo năm nay, trong tâm tình hộ trì Tam Bảo, chúng con, chúng tôi đã thực hiện một buổi cúng dường đến chư Tôn đức Tăng già, các bậc xuất sỹ tu hành nơi xứ Phật, đặc biệt là chư Tăng thường trú tại khu Thánh tích Bồ Đề Đạo Tràng, nơi đức Thế Tôn thành Đạo.. Xin tường trình cùng chư vị một số hình ảnh của buổi cúng dường chư Tăng các truyền thống Đạo Phật (International Maha Sangha), chư Tăng Tibet, India, Lào, Miến, Thái, Bangladesh, Việt Nam.. tai Bồ Đề Đạo Tràng. (Với tổng số 500 vị, mỗi vị thọ nhận 1 phong bì với tịnh tài 1000Rupees- tương đương 14usd và cúng dường thọ trai)
21/01/2021(Xem: 5053)
Trường phái Nyingma của Phật giáo Tây Tạng tổ chức Pháp hội Nyingma Monlam Chenmo lần thứ 32 tại Đại Giác Ngộ Tự (Mahabodhi Temple), thành phố Bodh Gaya, tiểu bang Bihar, nơi mà ngày xưa, cách đây 2550 năm, đức Phật Thích-ca Mâu-ni đã giác ngộ chân lý tối thượng dưới gốc cây Bồ-đề sau 6 năm khổ hạnh tinh chuyên. Sự kiện bắt đầu khai mạc vào ngày 14 tháng Giêng và sẽ kết thúc vào ngày 23 tháng Giêng năm 2021. Tuân theo nguyên tắc và hạn chế tập trung đông người do đại dịch Covid-19, sự kiện diễn ra chỉ có khoảng 100 vị Tăng sĩ Phật giáo tham dự.
21/01/2021(Xem: 4726)
Cư sĩ Matthew Kapstein, sinh ngày 15 tháng 12 năm 1949, Giáo sư thỉnh giảng, nhà nghiên cứu Phật học uyên thâm, học giả triết học Phật giáo Đại học Chicago, chuyên về lịch sử triết học Ấn Độ, Tây Tạng, và lịch sử văn hóa Phật giáo Tây Tạng, nghiên cứu những ảnh hưởng văn hóa trong việc Trung cộng cưỡng chiếm Tây Tạng. Ông là Giáo sư thỉnh giảng về Nghiên cứu Phật học tại Trường Đại học Thần học Chicago, Hoa Kỳ và Giám đốc Nghiên cứu Tây Tạng tại École pratique des hautes études ở Paris, Pháp.
20/01/2021(Xem: 5345)
Mỗi năm đến ngày mùng 8 tháng Chạp, giới Phật giáo Bắc tông cử hành lễ kỷ niệm Ngày Thành đạo của đức Phật Thích Ca (theo truyền thống Phật giáo Nam tông, ngày đức Phật Đản sinh, Xuất gia, Thành đạo và Niết bàn đều là ngày trăng tròn tháng Tư âm lịch). Chúng ta cùng tìm hiểu ý nghĩa của sự thành đạo. Sau khi vượt thành xuất gia, Sa môn Cù Đàm trải qua nhiều năm tháng tầm sư học đạo và khổ hạnh nơi rừng già, mục đích tìm ra con đường thoát ly sanh tử. Ngài đã thọ giáo nơi các tiên nhân nổi tiếng như Kalama, Ramaputta, và đã đạt đến trình độ tâm linh như các vị ấy. Tuy nhiên, Ngài biết rằng ở cõi trời cao nhất là Phi tưởng Phi phi tưởng cũng chưa phải là cứu cánh giải thoát vì còn trong Tam giới.
20/01/2021(Xem: 6090)
Khi chúng ta phát triển một ý tưởng thô về ý nghĩa gì là sự lệ thuộc trên tư tưởng, chúng ta nên tự hỏi mình rằng mọi người và mọi vật có thường xuất hiện đến chúng ta trong cách này hay không. Khi chúng ta bị tác động bởi những tư tưởng trong một trình độ vi tế, thật khó để xác định chúng ta nắm bắt chúng như thế nào. Do thế, hãy xem xét một thời điểm khi mà chúng ta cảm thấy thù hận và khao khát mạnh mẽ. Một con người và sự kiện thù hận và khao khát dường như cực kỳ cụ thể, ngay cả hoàn toàn không thay đổi, có phải thế không? Khi chúng ta nhìn một cách sát sao, chúng ta sẽ thấy rằng không có cách nào để thừa nhận là chúng ta đã thấy những hiện tượng như lệ thuộc trên tư tưởng rồi. Chúng ta sẽ thấy rằng chúng dường như tồn tại trong những điều kiện của chính chúng.
19/01/2021(Xem: 4621)
Những món quà Phật giáo Hàn Quốc đã gieo hạt giống Bồ đề, hoa Bát nhã, đầy hy vọng tại Tanzania, đang hướng đến Châu Phi. Tổ chức phi lợi nhuận “Đồng hành Xinh đẹp” (Hòa thượng Viên Hạnh (원행스님 - 圓行和尚), Tổng vụ Viện trưởng Thiền phái Tào Khê đời thứ 36) bắt đầu chiến dịch gây Quỹ để gửi các vật phẩm cần thiết cho hoạt động của Trường Đại học Công nghệ và Nông nghiệp Bodhi Garam (보리가람농업기술대학) ở Tanzania, Châu Phi. Đây là một chiến dịch nhằm thu hút sự tham gia của chư tôn tịnh đức tăng già và Phật tử tại các cơ sở tự viện Phật giáo trên khắp đất nước Hàn Quốc, với đầy ý nghĩa bởi mang lại niềm hy vọng cho Châu Phi. Quang cảnh Trường Cao đẳng Công nghệ và Nông nghiệp Barley Garam và các sinh viên đang thực tập tại thao trường.
19/01/2021(Xem: 4792)
Tiến sĩ Frederick Lenz được biết đến với biệt danh là “Rama” (tiếng Phạn: रामा) và “Atmananda” (tiếng Phạn: आत्मानदा), ông bắt đầu công phu tu tập và hướng dẫn thiền định Phật giáo từ tuổi thập niên 20. Trong suốt cuộc đời, ông miệt mài truyền tải tinh hoa Phật giáo đến sinh viên phương Tây, bậc thầy về tâm linh, truyền bá Phật pháp tại Hoa Kỳ, bao gồm các giáo trình Phật giáo Tây Tạng, Thiền định, Advaita Vedanta (IAST Advaita Vedānta; Sanskrit अद्वैत वेदान्त; là một tiểu trường phái của triết lý Vedānta; và Huyền bí học (Mysticism), tác giả, nhà thiết kế phần mềm, nhà kinh doanh và sản xuất thu âm. . .
18/01/2021(Xem: 9375)
Paing Takhon, năm nay 24 tuổi hiện là người mẫu kiêm diễn viên, MC nổi tiếng ở Myanmar, nhưng anh là một Phật tử thuần thành, mới đây anh đã phát tâm tham dự khóa tu xuất gia ngắn hạn tại quê nhà. Anh chàng sở hữu thân hình cường tráng với chiều cao khủng 1m88, mái tóc dài lãng tử cùng loạt hình xăm chất ngầu nên được mệnh danh là "Aquaman châu Á". Paing Takhon gia nhập làng giải trí với tư cách người mẫu từ năm 2014. Ba năm sau anh còn lấn sân sang lĩnh vực điện ảnh và ca hát. Tất cả số tiền thu được từ album đầu tay anh đều quyên góp cho trẻ mồ côi. Ngoài ra, anh còn biết vẽ tranh sơn dầu, thích nấu ăn và yêu động vật.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]