Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

04-Cuộc đời tương đối mà!

01/02/201108:04(Xem: 5960)
04-Cuộc đời tương đối mà!


CÀNH LÁ VÔ ƯU
Thích-Thanh-Từ

Cuộc Ðời TươngÐối Mà!

Hầuhếtchúng ta đều mắc phải cái bệnh "đòi hỏi tuyệt đối".Giàu thì mình muốn giàu hơn tất cả, sang cũng muốn mìnhsang hơn tất cả, cho đến đẹp, giỏi, khen, đều là hơntất cả. Có cái gì thua kém hơn người là buồn, tủi, bựcdọc không hài lòng. Do đó cộc sống không thấy có hạnhphúc, vì thấy mình còn thua người này kẻ nọ. Hoặc thantrách người thân của mình sao không được như ý mình muốn.Những nỗi khổ đau buồn bực ấy đều do không hiểu "cuộcđời tương đối mà!"

MuônVậtTương Ðối

Muôn vật hiện có trên cõi đờiđều là tương đối. Người thì có nam nữ, loài vật thìcó giống đực giống cái, điện thì có điện âm điện dương...,từ lý tương đối ấy mà sinh ra vạn vật. Chính lý tươngđối là gốc sinh hóa vô cùng vô tận. Nếu chúng tách rờisự vật ra từng phần đơn độc thì sự sinh hóa phải dừnglại. Cuộc sống chúng ta là tương quan trong cái đối nghịch,sinh trưởng trong cái chống chọi. Như thế, làm sao chúng tatìm ra sự bình an hoàn toàn, sự hạnh phúc miên viễn trongcuộc đời tương đối. Sáng suốt nhất là chúng ta nhìn sựtương đối là lý đương nhiên, không oán hờn, không tráchcứ trước mọi sự việc trái ngược nhau. Ðồng thời chúngta khéo lợi dụng lý tương đối tạo thành những công nănghữu ích cho con người. Thí dụ nước với lửa là đối nghịchnhau, song nếu chúng ta khéo dùng lửa đun sôi nước để nấuchín các thức ăn... Ðiện âm điện dương đối nghịch nhau,chạm nhau làm tóe sáng, con người khéo lợi dụng sự phátsáng đó tạo ra vô số công năng của điện... Chừng đóchúng ta mới thấy sự hữu dụng của nước với lửa, củađiện âm điện dương phục vụ cho con người một cách hữuhiệu. Chúng ta cứ sợ nước dập tắt lửa, tách rời xa chúngthì chúng ta có được lợi gì trong cuộc sống. Như vậy,chúng ta không sợ sự đối nghịch của vạn vật mà chỉkhéo léo sử dụng sự đối nghịch một cách hữu hiệu trongcuộc sống của chúng ta.

BảnThân Con Người Tương Ðối

Con người có hai phần vật chấtvà tinh thần, cả hai phần này đều là tương đối.
Phần vật chất:- Ðức Phậtphân tích một cách đơn giản, trong cơ thể con người do bốnthứ cất tạo thành. Phần cứng rắn là đất, phần thấmướt là nước, phần nóng ấm là lửa, phần chuyển độnglà gió. Bốn phần này chung họp làm thân con người và tồntại một thời gian. Nếu thiếu một trong bốn phần, thânnày phải bại hoại. Bản thân bốn phần này lại đối nghịchnhau, nước chống với lửa, gió chọi với đất. Cho nên trongkhi nước thạnh lửa suy thì sanh ra bệnh lạnh, hoặc phù thủng...,ngược lại khi lửa thạnh nước suy thì sinh ra bệnh nóng,nhức đầu..., khi gió thạnh đất suy thì sanh ra bệnh đaunhức khắp thân thể; khi đất thạnh gió suy thì sanh ra bệnhtê liệt, khó thở ... Do đó mang thân này suốt đời chúngta phải điều hòa tứ đại. Tứ đại được điều hòa thìthân mới mạnh khỏe an ổn, ngược lại thì đau ốm liênmiên. Bốn thứ đối nghịch này, chúng ta có nên hủy hoạinó không, nếu chúng ta còn muốn sống? Hay mỗi ngày chúngta cố gắng điều hòa chúng để cho thân này được an ổn.Bốn thứ thù nghịch nhau, song nhờ bốn thứ mà thân này mớitồn tại. Như thế chúng ta sợ ghét sự chống đối hay khéođiều hòa sự chống đối ? Muốn thân này còn sống đượcan ổn, không cách nào hơn chúng ta phải biết điều hòa chúngmột cách thích hợp. Ðó là khôn ngoan, là biết sống.
Phần tinh thần- Nội tâmchúng ta đối nghịch nhau rất là phức tạp. Ở đây tạmchia tâm niệm thiện và tâm niệm ác đối nghịch nhau. Songkhi niệm ác dấy lên thì niệm thiện ẩn đi, ngược lạikhi niệm thiện dấy lên thì niệm ác trốn mất, hai thứ đốinghịch nhau mà không đồng thời. Vì thế nếu biết tu, chúngta luôn luôn nuôi dưỡng niệm thiện thì niệm ác lặn mất.Nếu người không biết tu, cả ngày dung chứa niệm ác thìniệm thiện không bao giờ xuất hiện. Nuôi dưỡng niệm thiệnlà bậc hiền thánh, dung chứa niệm ác là kẻ bạo tàn. Chúngta trọn quyền tạo lập cho mình một chỗ đứng vào hàngthánh thiện, cũng chính chúng ta tự bước lùi vào hang quỉ,chỗ thú cầm. Không ai bắt buộc, không ai lôi kéo chúng tađến nơi này hay nơi nọ. Do đó, đức Phật dạy chúng tatu quán từ bi để trừ tâm sân hận, quán tứ niệm xứ đểdiệt mê lầm, hoặc niệm danh Phật để át tạp niệm...Chúngta có đủ khả năng làm hiền thánh, chúng ta cũng có đủchủng tử ngạ quỉ súc sanh. Bởi vậy nói tu tâm là chúngta khéo điều phục những tâm niệm xấu ác, nuôi dưỡng nhữngtâm hiền thiện. Khi sắp lâm chung, những tâm niệm nào mạnhsẽ lôi chúng ta đến cảnh tương xứng. Vì tâm niệm là gốccủa luân hồi sanh tử.

Thế thì bản thân chúng ta từ vậtchất đến tinh thần đều là tương đối. Như vậy chúngta không ưa tương đối, chạy trốn tương đối có đượckhông? Quả là điều dại khờ. Chúng ta phải khôn ngoan sángsuốt tìm mọi cách điều hòa cho thân an ổn, chinh phục chotâm hiền thiện. Ðây là việc làm của người biết sốngvà sống vươn lên.

TươngQuan Mình và Người

Trong cuộc sống tương quan giữamình và mọi người chung quanh, hầu hết chúng ta mắc phảicái bệnh "cầu toàn trách bị". Chúng ta đòi hỏi nhữngngười sống gần với mình phải vẹn toàn một trăm phầntrăm như ý mình muốn, phải đầy đủ hoàn toàn những điềunhư tâm mình tưởng. Nếu những người thân chỉ được támchục phần trăm trong sự đòi hỏi của mình, sống gần gũilâu ngày còn hai chục phần trăm bất như ý sẽ làm chúngta sinh bực bội chán chường. Sao chúng ta không đặt lạicâu hỏi, chính mình có được vẹn toàn mọi điều như ýmình muốn chăng? Hẳn là không. Mình đã không được vẹntoàn, sao lại đòi hỏi người phải vẹn toàn, có phải làbất công, phi lý không? Ngày xưa ở các nước Ðông Phươngquyền lập gia đình cho con cái là ở cha mẹ, cha mẹ địnhsao con cái phải nghe vậy. Do đó có những gia đình vợ chồngkhông hòa thuận vì không cảm thông nhau, nên đi đến đổvỡ ly dị. Ngày nay ở các nước Tây phương con cái đượcquyền chọn lựa đôi bạn cho mình. Họ có quyền sống gầnvới người họ chọn lựa một thời gian, sau mới quyết địnhthành đôi bạn hay không, cha mẹ không được quyền can thiệpđến đời tư của họ. Thế mà khi đã thành đôi bạn, lạivẫn ly dị nhau. Ðây là lỗi tại ai, cha mẹ ép buộc chăng?Quả thực đây là cái bệnh đòi hỏi vẹn toàn một trămphần trăm theo ý mình muốn. Bởi không có ai thỏa mãn sựđòi hỏi cuả mình nên từ thân biến thành sơ. Thế là cứly dị mãi, đến già trở thành người cô độc. Chúng ta cònthêm lắm bệnh. Nào là muốn ai cũng khen mình, có người chêlà buồn khổ. Muốn mọi người gần mình phải tuyệt đốituân theo sự sắp đặt của mình, nếu 80 điều họ theo, còn20 điều họ chống là giận dữ bực tức. Ðòi hỏi ngườithân của mình phải tốt tuyệt đối, nếu họ có vài ba điềuxấu liền chán nản muốn lánh xa. Ðến tình cảm thương yêucũng vậy, bắt buộc người thân của mình phải thương yêumình tuyệt đối, nếu bị chia xẻ cho ai, dù người ấy làthân thuộc hợp lý, vẫn cảm thấy buồn. Chính vì lòng thamđòi hỏi quá đáng, khiến người chung quanh chúng ta muốntừ từ xa lánh chúng ta. Ðây là vì không biết cuộc đờilà tương đối, nên không thông cảm với mọi người chungquanh, kết quả tự chuốc lấy khổ đau cô độc. Trái lại,chúng ta tập nhìn mọi người với cặp mắt tương đối,không đòi hỏi quá đáng, dễ thông cảm tha thứ nhau. Ðượcvậy đời sống sẽ vui tươi, người thân đông đảo, dễdàng đạt được hạnh phúc.

BệnhThần Tượng

Chúng ta dễ mắc cái bệnh "thầntượng hóa"người mình quí kính. Người mình quí kínhlà thánh thiện một trăm phần trăm, nếu thân cận một thờigian, thấy vị ấy còn một vài điều phàm tục, "thần tượng"liền sụp đổ. Từ đây ta sanh tâm khinh nhờn cho đến bấtmãn, không còn tin tưởng vào ai nữa. Ðây là một trọng bệnh,khiến ta tự cao ngạo mạn, mất lòng tin. Khi trước do tinvào bậc thầy thánh thiện nên ta tinh tấn tu hành, nay mấtlòng tin rồi sinh bê tha hư đốn. Tại sao ta không sét nétkỹ càng xem, bậc thầy kia hơn mình bao nhiêu phần? Nếu tacó hai mươi phần trăm tốt, vị thầy có đến bốn chụcphần trăm hay sáu chục phần trăm thì đáng cho mình học tậptheo. Vì vị ấy đã tốt hơn mình gấp đôi gấp ba, còn chêtrách nỗi gì. Bởi vì vị thầy chưa phải là thánh, là Phậtlàm sao hoàn toàn thánh thiện được. Chúng ta cảm thông vịấy đang tu, là còn những cái dở để sửa, để bỏ. Bồtát vẫn còn vi tế vô minh, nếu sạch hết vô minh là thànhPhật. Biết rõ cái tốt của những vị mình quí kính là tươngđối, thì mình kính tin vừa phải, chừng mực, không "thầntượng hóa". Nếu vị thầy ấy còn vài nét phàm tục, mìnhcũng cảm thông tha thứ, vì đây là người đang tu đang tiến,đừng đòi hỏi qúa đáng. Hoặc giả ngày xưa mình tin vàovị thầy gần như tuyệt đối, vị ấy dạy gì mình cũngcố gắng làm cho được, nhờ đó trên đường tu mình tiếnbộ vượt bực. Nay mình mất lòng tin ở vị thầy ấy, sinhtâm lui sụt, đây là điều sai lầm. Tại sao mình không nghĩ,ta tu là ta tiến, thầy tu thì thầy tiến. Ðâu phải thầytu hay ta mới tiến, thầy tu dở ta bị lùi. Phải tin vào mình,phải trông cậy vào mình. Phật dạy" "các ông phải tựthắp đuốc lên mà đi", lại "các ông phải làm cồnđảo cho mình". Thế nên, không vì "thần tượng sụp đổ"mà ta lùi bước. Chính chúng ta phải nhìn các bậc thầy quíkính vẫn là tương đối thì chúng ta khỏi chới với khi trôngthấy vài nét phàm tục của các ngài.

LụcTổ Dậy 36 Pháp Ðối

Trong kinh Pháp Bảo Ðàn, Lục Tổdạy đệ tử sau này có ai hỏi đạo nên dùng 36 pháp đốiđể trả lời thì không sai tông chỉ nhà thiền. Nếu ngườihỏi "có" lấy "không" đáp, người hỏi "sáng" lấy "tối"đáp... Tại sao ? Vì nhơn "không" mà lập "có". Bởi có cái"không" mới thành lập cái "có" không có cái "không" thì cái"có" cũng chẳng thành. Ngược lại, nhơn cái "có" mà lậpcái "không", nếu chẳng có cái "có" thì cái "không" cũng vônghĩa. Ðến cái sáng cái tối cũng thế. Do tối mới lậpsáng, nhơn sáng mới nói tối. Hai cái nương nhau mà thành,không có thật pháp. Tất cả sự vật ở thế gian đều làđối đãi nhau mà lập, không có một pháp nào là thật. Thếmà chúng ta chấp thật pháp, thật ngã, tăng trưởng si mê,chìm đắm mãi trong biển luân hồi sanh tử. Dưới con mắtcủa Phật của Tổ thấy rõ các pháp như huyễn như hoá, nêncác ngài vượt ra ngoài vòng sanh tử luân hồi. Thấy tấtcả là tương đối hư giả là cái thấy của người giácngộ.

ChỉTâm Chẳng Sanh Diệt Là Tuyệt Ðối

Tuy nhiên trong cuộc đời tươngđối vẫn có cái tuyệt đối mà ít ai biết đến. Chúng tacứ quen chạy theo hình sắc thanh âm là những thứ vô thườngsanh diệt. Ngay cái sanh diệt lại đòi cho được tuyệt đối,quả là chúng ta bắt bóng mò trăng. Làm gì có, ngay cái đốiđãi sanh diệt lại là tuyệt đối vô sanh. Khi chúng ta vươntheo hình thức sự vật mà mong được cái chẳng sanh chẳngdiệt. Hãy nghe hai câu sau trong bài kệ trình kiến giải lênNgũ Tổ của người cư sĩ họ Lư: "Xưa nay không một vật,chỗ nào dính bụi nhơ" (Bản lai vô nhất vật, hà xứnhạ trần ai). Có vật là vô thường sinh diệt, dù cứng nhưchất kim cương, cũng là vô thường sinh diệt. Chỉ có tâmthể không hình tướng, không dấy động mới là bất sanhbất diệt. Tâm thể vượt ngoài đối đãi hai bên, vĩnh hằngbất biến. Vừa thấy hai bên là mất tâm thể rồi. Cho nênTổ Tang Xán kết thúc bài Tín Tâm Minh nói "Tín tâm bấtnhị, bất nhị tín tâm" (Tin tâm không còn hai, không haitin tâm). Có hai còn là đối đãi, không hai thì đối đãivới cái gì. Chính cái vượt ngoài đối đãi mới thực sựlà tuyệt đối. Cái tuyệt đối có sẵn nơi mọi người chúngta không phải tìm kiếm bên ngoài. Biết buông tâm niệm đốiđãi, sống bằng thể không đối đãi là người giác. Tráilại, chạy theo tâm niệm đối đãi sinh diệt, quên mất tâmthể bất sanh bất diệt là ngưòi mê.

KếtThúc

Con người chán nản ê chề khổđau cùng cực, vì những thần tượng của mình dựng nên đềusụp đổ. Còn tin tưởng vào đâu khi lòng tin tuyệt đốidồn vào các thần tượng, mà nay tan vỡ hết rồi. Ðây làngười mắc bệnh thiếu thực tế, lúc nào cũng lý tưởnghoá kẻ khác. Khi lý tưởng bị thất vọng, họ đâm ra thùghét chán chường. Cộng thêm bệnh đòi hỏi quá đáng, khiếnhọ không bằng lòng một ngừơi nào trên thế gian này. Thếlà, họ đang sống trong đông đảo quần chúng, mà cảm thấynhư mình lang thang trong bãi sa mạc. Sự chán đời tuyệt vọngcủa những người này phát xuất từ sự gởi gấm tất cảlòng tin vào kẻ khác. Chúng ta phải khôn ngoan nhìn mọi ngườibằng con mắt tương đối, tin mọi người bằng lòng tin giớihạn. Chúng ta sẽ bằng lòng trong đời sống này, và sẽ cảmthông tha thứ những người thân với mình khi họ phạm phảisai lầm. Chúng ta còn chỗ nương dựa duy nhất là chính mình.Mình sẵn có hòn ngọc quí mà lâu nay đã quên lãng.Hôm naykhéo tay mở chéo áo lấy hòn ngọc đem ra dùng, đời ta sẽhạnh phúc biết là bao!




Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
23/01/2019(Xem: 6213)
Đến dự lễ cúng Tất niên tại Chùa Tịnh Quang ở Suối Hiệp, được đọc và nghiền ngẫm lại "Mười Điều Tâm Niệm" ngay tại chỗ, tự dưng thấy hỗ thẹn vô cùng, thấy mình quá yếu đuối, hèn nhát, trước pháp Phật vi diệu mà mình đã từng được nghe, được đọc, được học. Lòng nặng trĩu, bèn lên chánh điện lạy sám hối...
23/01/2019(Xem: 8102)
Trong kho tàng văn chương truyền khẩu hay huyền thoại Việt Nam đã có nhiều chuyện duyên-nợ. Chẳng hạn chuyện tích Mưa Ngâu mà dân gian đã có thơ truyền tụng: Tục truyền Tháng Bảy mưa ngâu. Con Trời lấy đứa chăn trâu cũng phiền. Một rằng duyên hai là rằng nợ. Sợi xích thằng ai gỡ cho ra.
17/01/2019(Xem: 7936)
Có nhiều người cho rằng cầu an cầu siêu là mê tín dị đoan rồi chê bai ... đối với những người đi cầu an cầu siêu. Lại có không ít người chưa hiểu biết về chuyện cầu an cầu siêu rồi lại rất cuồng tín, thậm chí làm ra những việc còn mang nhiều tội lỗi hơn như việc giết hại sinh vật cúng tế, đốt nhiều vàng bạc .... rồi muốn cầu Phật Thánh Thần ... gia hộ, thế nhưng tất cả những người trên ấy đều vô minh không thể mang lại phước đức mà còn tốn tiền, tốn thời gian và mất tiền của đã không có phước mà phải mang thêm tội lỗi chồng chất.
17/01/2019(Xem: 6485)
Có những kỷ niệm ta tưởng đã được cất giấu tận đáy sâu tâm hồn và sẽ phải mờ theo thời gian, theo sự đổi thay, sự trưởng thành của ta , nhưng không .....nó không hoàn toàn mất đi ...mà thật ra vẫn tồn tại trong cơ thể ta qua những hình thức vật lý hay khuôn mẫu mà ta ứng xữ và đó cũng chính là nguyên tắc mà tôi đã học về nghiệp ....hay nói đúng hơn là những trải nghiệm trong cuộc đời ....
15/01/2019(Xem: 15303)
“Một nữ cư sĩ đến gặp vị thầy trụ trì và nói: "Bạch Thầy, Con không đi chùa nữa!" Vị Thầy hỏi: – Vậy à, Đạo hữu có thể cho thầy biết lý do không?
14/01/2019(Xem: 8334)
Tiếng Việt thời LM de Rhodes - (phần 13) vài nhận xét về cách dùng tên bộ phận cơ thể ở phía dưới như lòng, bụng, dạ, ruột[1] cho đến vật âm mình! Nguyễn Cung Thông[2] Phần này bàn về một số cách dùng trong tiếng Việt như lòng, bụng, dạ, ruột thời các LM Alexandre de Rhodes và Jeronimo Maiorica sang An Nam truyền đạo. Đây là những ‘cầu nối’ để có thể giải thích một số cách dùng hiện đại. Các tài liệu tham khảo chính của bài viết này là ba tác phẩm của LM de Rhodes soạn: cuốn Phép Giảng Tám Ngày (viết tắt là PGTN), Bản Báo Cáo vắn tắt về tiếng An Nam hay Đôn Kinh (viết tắt là BBC) và từ điển Annam-Lusitan-Latinh (thường gọi là Việt-Bồ-La, viết tắt là VBL) có thể tra từ điển này trên mạng, như trang này chẳng hạn http://books.google.fr/books?id=uGhkAAAAMAAJ&printsec=frontcover#v=onepage&q&f=false .
14/01/2019(Xem: 7151)
Bài này là phần 4 trong loạt bài viết về hiện tượng đồng hóa âm thanh trong ngôn ngữ với tâm điểm là tiếng Việt. Phần 1 bàn về khuynh hướng đồng hoá âm thanh (phụ âm) qua các cách dùng ròng rọc < rọc rọc, phưng phức < phức phức, nơm nớp < nớp nớp, phấp phất/phất phới/phân phất < phất phất và khám bệnh < khán bệnh. Phần 2 bàn về khuynh hướng đồng hoá âm thanh (thanh điệu) qua các cách dùng Huyền Trang < Huyền Tảng/Tráng, Tịnh Độ < Tịnh Thổ. Phần 3 chú trọng vào cách dùng tẩm liệm so với tấn/ tẫn/tẩn liệm qua khuynh hướng đồng hoá âm thanh (phụ âm) như khán bệnh > khám bệnh. Bài này (phần 4) bàn về các dạng phong thanh (phong thinh), phong phanh và phong văn.
11/01/2019(Xem: 6489)
Trước khi bàn về ma, chúng ta thử định nghĩa xem “ma” là gì. Thông thường, ma là người đã chết hay người chết. Đang sống thì là người. Nhưng vừa chết một cái đã thành ma, thây ma. Chính vì thế đám ma là nghi thức hoặc tục lệ để khóc than, để tang, thăm viếng, tiễn đưa hoặc chôn cất, hỏa thiêu người chết.
11/01/2019(Xem: 7095)
Sống chung với nghịch cảnh, đương đầu với chướng duyên, gẫm ra đó cũng chính là một pháp môn tu trong tám vạn bốn ngàn pháp môn của Đức Phật truyền dạy. Người đã tu học theo Pháp Phật thì chẳng còn lạ gì chuyện “sống chung” và “đương đầu” này! Nhờ chướng duyên mà ta mới thấm thía được lý nhân quả. Nhờ nghịch cảnh mà ta mới nhận thấy rõ vô thường.
09/01/2019(Xem: 5918)
HƯƠNG NHẠC ĐẠI NGÀN Ngàn mùi hương, chỉ có hương giới hạnh mới bay ngược làn gió; vạn âm ba, gió rít đại ngàn hay sóng âm biển khơi mới tồn tại miên trường. Âm nhạc đời thường chỉ là cơn sóng xô giạt tiếp nối theo từng thời đại, có lúc chìm lặng lãng quên, có lúc mơ hồ thổn thức.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]