Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

02-Nguồn gốc mê tín

01/02/201108:04(Xem: 4727)
02-Nguồn gốc mê tín


CÀNH LÁ VÔ ƯU
Thích-Thanh-Từ

Nguồn Gốc Mê Tín

Mêtín là cái bệnh những nhà trí thức đều chê trách, chánhquyền cũng chủ trương dẹp trừ mê tín. Thế mà bệnh mêtín mỗi ngày một tăng, càng lúc càng lan rộng. Thậm chícó những nước tự cho mình là văn minh nhất thế giới, màdân chúng trong nước ấy vẫn còn mê tín. Ðó là tại sao?

Trước tiên chúng ta phải biếtmê tín là thế nào? Mê tín là lòng tin mù quáng không thấylẽ tật, không đúng chân lý. Ðơn cử một số thí dụ đểchúng ta biết rõ. Như tin ông đồng bà cốt, tin xin xăm bóiquẻ, tin ngày lành tháng dữ, tin số mạng sang hèn,tin coi tayxem tướng, tin cúng sao cúng hạn, tin thầy bùa thầy chú, tincầu cúng tai qua nạn khỏi v.v... Những lối tin này không cólý luận, không đủ bằng chứng, không có lợi ích, nên gọilà mê tín.

Mê tín không phải là sự ngẫunhiên phát sinh mà có nguồn gốc phát xuất cụ thể. Có haithứ nguồn gốc mê tín:

Mê tín do tâmmong cầu- Con người khi mong cầu một điều gì màquá khả năng mình thì dễ sinh mê tín. Ví như có một ngườimuốn vay một số vốn lớn làm ăn, không biết việc làm ănnày sẽ kết quả tốt hay xấu. Tự nhiên lòng họ thấy bănkhoăn lo lắng không biết hỏi ai, tin ai. Nghe nói có ông đồngbà cốt nào đó linh ứng, nói quá khứ vị lai rất trúng,họ liền muốn tìm tới hỏi han. Chỉ tốn tiền quẻ có nămbảy trăm, mà biết việc làm cuả mình thành công hay thấtbại thì an ổn biết mấy. Hoặc trên đường công danh cónhững học sinh, sinh viên đến kỳ thi cử, lo âu thân phậnmình không biết thi đậu hay rớt. Nghe đồn Lăng này, Miếukia linh hiển xin xăm bói quẻ sẽ báo đúng những điều sắpđến, các cô, các cậu không tin vào khả năng học hành củamình, nhất định đi đến xin xăm để hỏi thăm thần thánhxem thế nào.

Mê tín do tâmsợ hãi- Sợ hãi là gốc sinh ra mọi mê tín. Mộtgia đình nọ tiếp tục xảy ra đôi ba người chết "bất đắckỳ tử", những người còn lại đâm ra hoảng hốt, nghe đâucó thầy bùa thầy chú giỏi liền đi rước về ếm đốiđể mình khỏi bị chết trùng. Chính vì sợ hãi mà nhữngngười này sanh mê tín. Có những người bị tai nạn dồndập, vừa té xe bị thương lại bị người giựt nợ, contrai thi rớt, con gái bị bệnh.. mất bình tĩnh, nghe đồn ôngđồng này hay bà cốt kia giỏi, họ liền tìm đến để cầucứu hộ, xin phép lạ về để trừ tai ách. Lại có ngườisắp làm điều mạo hiểm, lo sợ không biết vượt qua mọihiểm nguy được chăng, họ vào am vào miếu để thưa hỏithần linh bằng cách rút xăm bói quẻ. Nếu được xăm tốtquẻ lành thì họ mới mạnh dạn xông pha. Có những ngườimắc bệnh nan y, họ buồn khổ sợ chết. Nghe bất cứ nơiđâu có sự linh thiêng mầu nhiệm, họ đều đi đến đểxin thuốc cầu bùa. Dù phải làm những điều quái dị, họthảy đều chấp nhận, miễn sao lành bệnh là vui. Hoặc cóngười sợ vận sui hạn xấu, nên đầu năm đến chùa cúngsao cúng hạn, cầu cho tròn năm cuộc sống được hanh thông,gia đình được an vui may mắn. Hoặc có người vì thươngcha mẹ đã quá cố, sợ cha mẹ chết rơi vào địa ngục chịuđói khổ nhọc nhằn, họ bèn nhờ thầy cúng dán lầu kho,xe cộ, giấy tiền giấy bạc, lễ cúng đốt xuống cho chamẹ được an hưởng nơi âm ty... Mọi sợ hãi đều là cộinguồn của mê tín.

Là con người có ai không mong cầu,không sợ hãi, đã có hai thứ này thì nhất định sẽ rơivào mê tín dị đoan. Khi chưa gặp việc thì chúng ta chốngđối mê tín, nhưng gặp lúc có việc khắc khoải mong cầu,kinh hoàng sợ hãi, chúng ta cũng trở thành mê tín như ai. Dùlà người có bằng cấp cao, có kiến thức rộng, nếu trongtâm có mong cầu sợ hãi, họ cũng sẽ rơi vào hố mê tín.Có những người đứng trước quần chúng thì miệt thị chêbai kẻ mê tín, song về nhà gặp lúc gia cảnh rối nùi bàxã vẫn đi bói quẻ xin xăm, hỏi quá khứ vị lai nơi ôngđồng bà cốt. Bởi con người mang sẵn tính tham lam, thóihèn nhát, nên khi muốn thỏa mãn sự mong cầu, muốn đượcbình an khi nguy hiểm, đều nảy sinh mê tín dị đoan. Thếnên bệnh mê tín dị đoan là bệnh bẩm sinh có sẵn nơi mọicon người. Muốn chữa lành bệnh này phải là bậc Thánh yvà thần dược mới mong điều trị được.

PhápPhật dạy trị bệnh mê tín

Phật là bậc Thánh y, pháp củaPhật dạy là thần dược, nếu ai tin nơi Phật, dùng thuốcPhật dạy trị mê tín chắc chắn sẽ được lành. Pháp Phậtdạy trị bệnh mê tín có hai thứ:

Nhân quả- Nhân quả là sự thật, là lý đương nhiên mà người đờiít ai nghĩ đến. Bởi con người cố mong cầu cái quả màkhông cân xứng cái nhân. Hoặc họ ước mơ nhặt được nhữngcái quả ngoài tầm tay của họ. Hoặc họ không có tâm tựtín nên làm việc gì cũng ngờ vực lo âu. Ðó là những lýdo khiến họ đâm ra mê tín. Nếu mọi người tự biết rõrằng mọi hậu quả nên hư tốt xấu, thành công thất bạiđều do nguyên nhân hay dở đủ thiếu của con người tạonên. Không có cái quả nào tự trên trời rơi xuống, hoặcdưới đất bỗng dưng hiện lên, mà đều do trí sáng suốtvà sức lao động cần cù của con người tạo ra. Chúng tacứ tạo nhân tốt thật đầy đủ thì quả tốt nhất địnhđến. Ví như chúng ta muốn có quả một cây cam mật, trướcchúng ta phải chọn giống từ cam mật, hoặc chiết cành từcây cam mật. Kế đó, chúng ta phải lựa chỗ đất mầu mỡương giống xuống tồi tưới nước bón phân đúng thời đúnglúc, chăm sóc sâu bọ đừng cho phá hại. Sau này chúng ta sẽthu hoạch được quả cam mật không sai. Chúng ta khỏi phảimong cầu, khỏi phải trông đợi mà quả sẽ thành tựu viênmãn theo sở nguyện của mình. Cũng thế, mọi sự nên hư thànhbại trong đời mình không phải ngẫu nhiên mà đến, khôngphải từ ai ban cho, mà do những cái nhân chúng ta tạo nêntừ trước, khi nhân duyên đầy đủ thì quả thành. Khôngphải chúng ta cầu xin mà nó đến, không phải chúng ta xuađuổi mà nó đi, một khi nhân đã thành thì quả phải chịu.Chúng ta cứ sợ tai ương đổ lên đầu chúng ta, mà lại khôngsợ những nhân xấu do mình đã gieo từ trước. Chúng ta cầuthần khấn Phật ban bố phúc lành cho chúng ta, mà chúng takhông chịu ban ơn bố đức cho những người chung mình. Nhữngnhân xấu kết hợp thành quả xấu, những nhân tốt tụ hộithành quả tốt. Cầu mong quả tốt mà không chịu gieo nhântốt, sợ hãi quả xấu mà không dừng tay tạo nhân xấu, sựcầu mong sợ hãi ấy chỉ là việc không đâu. Chi bằng chúngta ngày cứ tạo nhân lành, tránh nhân dữ, chả cầu mong sợhãi chi hết.

Song nhân quả không phải đơn thuầnmà đa dạng, chẳng phải chỉ do trực tiếp ở đời hiệntại mà lại gián tiếp của nhiều đời. Biết rõ nhân quảtự mình gây tạo, chúng ta can đảm nhận những quả khổmà không chút sợ hãi buồn phiền. Mình làm chủ tạo nhân,chính mình làm chủ thọ quả, còn cầu xin cái gì, cần hỏihan ai nữa. Chỉ mình sáng suốt khi tạo nhân, cần cù nuôidưỡng bảo vệ cho nhân tăng trưởng, thì quả chín mọngsẽ đến tay mình một cách dễ dàng. Chúng ta tin chắc lýnhân quả như thế, mọi mê tín sẽ tan theo mây khói. Ðấylà quyền con người sẽ nằm trọn trong bàn tay cuả chúngta.

Ba cửa giảithoát(Tam giải thoát môn) - ba cửa này là Không,Vô Tướng, Vô nguyện (vô tác). Ðây là người tu đượctrí tuệ thâm hậu thấy suốt con người và ngoại cảnh đúngnhư thật. Khônglà từ con người cho đến muôn vậtđều do nhân duyên kết hợp thành không có chủ thể nhấtđịnh. Bởi căn cứ trên lý nhân duyên, thấy vạn vật khôngcó chủ thể nên nói là "Không". Từ một cái nhà cho đếncái bàn, cái ghế, cây bút chì ... tìm thử cái gì là chủthể của nó. Nếu có chủ thể thì không đợi duyên hợp,đợi duyên hợp mới có thì nhất định không có chủ thể.Ðến con người chúng ta thử tìm xem cái gì là chủ thể củathân này? Như Phật dạy thân này do tứ đại (đất, nước,gió, lửa) hợp thành, thiếu một trong bốn thứ thì thân phảihoại. Ðã là bốn thứ thì thứ nào là chủ ? Có một thứlàm chủ thì thiếu một thứ khác tại sao nó không còn? Bốnthứ này lại thù địch chống đối nhau, đem bốn đứa thùnhốt chung một chỗ thì có an ổn không ? Chúng ta có bổnphận phải nuôi dưỡng điều hòa bốn kẻ thù này bằng cáchchọn những thức ăn uống nào để quân bình chúng. Về tinhthần cũng thế, nội tâm chúng ta có mặt tốt xấu thiệnác đủ thứ, thử hỏi cái nào là chủ. Cho nên nói là đờisống của ta, mà thực sự cái gì là ta? Cái ta chỉ là tưởngtượng chớ không có thực thể. Từ lãnh vực không có thựcthể nhìn sang lãnh vực "vô tướng"thực hợp lý vôcùng. Bởi vì vạn vật không có thực thể nên không có tướngthật (vô tướng) của nó. Cái mà chúng ta trông thấy, sờmó được chỉ là giả tướng của duyên hợp mà thôi. Người,vật chỉ là tướng hư giả. Ðã là hư giả chúng ta có mongcầu để được, sợ hãi khi mất hay không? Thế là tiếnđến "vô nguyện". Bởi thấy thân hư dối, mọi vậthư dối, chúng ta không còn tham sống sợ chết, không còn hammê vàng ngọc. Ðã thấy trên thế gian này không có cái gìđáng mong cầu, đáng sợ hãi, thì còn gì phải khấn nguyền,phải van xin, phải thưa hỏi các vị thánh thần. Dùng trítuệ này dẹp tan mê tín, như chế nước sôi trên băng. Bacửa giải thoát này là đỉnh cao trí tuệ, thấy tận cùngbản chất con người (ngã) và vạn vật (pháp). Chính do thấyrõ bản chất hư dối của chúng, nên gỡ bỏ mọi mê lầmcố chấp, mọi tham lam trói buộc, được tự tại an vui, gọilà giải thoát.

Tóm lại, mê tín là một tệ nạncủa xã hội, nó tạo dựng những con người yếu hèn, mấttự tin, không sáng suốt. Muốn có một xã hội văn minh lànhmạnh chúng ta không thể nào chấp nhận nạn mê tín hoànhhành. Huống nữa trong giới Phật Giáo chúng ta đang kế thừachánh pháp giác ngộ giải thoát của đấng Thế Tôn mà nuôidưỡng chấp nhận mê tín được sao? Thế mà có nhiều Tăngsĩ trụ trì, khi nghe Phật tử than làm ăn sa sút, liền bảođến chùa thầy cầu nguyện cho; nghe con cháu Phật tử sắpthi cử, bảo ghi tên để thầy cầu nguyện cho; nghe Phật tửthan gia đình xảy ra tai nạn, bảo đến chùa thầy cúng saocúng hạn cho ... Ôi thôi vô số chuyện, cái gì thầy cũnglãnh hết, lo hết và bao thầu hết. Ðó là chúng ta đang truyềnđăng tục diệm hay chúng ta dụi tắt ngọn đuốc chánh phápcủa đức Như Lai?


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
16/11/2010(Xem: 6298)
Chúng tôi vui mừng biết rằng Hội Nghị Quốc Tế Sakyadhita về Đạo Phật và Phụ Nữ được tổ chức tại Đài Loan và được phát biểu bởi một tầng lớp rộng rãi những diễn giả từ thế giới Phật Giáo. Chúng tôi tin tưởng vững chắc rằng, những người Phật tử chúng ta có một đóng góp nổi bật để làm lợi ích cho nhân loại theo truyền thống và triết lý đạo Phật.... Thực tế, Đức Phật xác nhận rằng cả nữ và nam có một cơ hội bình đẳng và khả năng để thực hành giáo pháp và để thành đạt mục tiêu tu tập.
16/11/2010(Xem: 5052)
Sống là làm cho mình càng ngày càng hoàn thiện hơn, theo đúng với sự tiến hóa của con người và thế giới. Tự hoàn thiện là tránh làm những cái xấu và trau dồi thêm những cái tốt. Trau dồi, bồi dưỡng, trồng trọt cũng là nghĩa chữ văn hóa (culture) trong tiếng phương Tây. Bất kỳ con người nào cũng muốn cuộc sống mình tiến bộ theo chiều hướng đúng hơn, tốt hơn, đẹp hơn. Không ai muốn điều ngược lại.
15/11/2010(Xem: 6101)
Nhiều thuật ngữ trong Đạo Pháp mang tính cách thật căn bản chẳng hạn như Giác ngộ hay sựQuán thấy sáng suốt(Bodhi),Vô thường(Anitya), sự Tương liêngiữamọi hiện tượng hay Lý duyên khởi(Pratityamutpada), v.v... Trong số này cómột thuật ngữ khá quan trọng là Khổ đau(Duhkha), tuy nhiên thuật ngữ này tươngđối ít được tìm hiểu cặn kẽ, có lẽ vì khổ đau là những gì quá hiển nhiên ai cũngbiết. Thật vậy tất cả chúng sinh đều gặp khó khăn nhiều hay ít không có một ngoạilệ nào cả.Lạm Bàn Về Khái Niệm « Khổ Đau » Trong Phật Giáo - Hoang Phong
14/11/2010(Xem: 6148)
Trong Kinh Pháp Hoa, phẩm Dược Vương Bồ Tát Bổn Sự dạy rằng: “Cúng dường xong, Bồ-tát Hỷ Kiến xuất định và tự nói trong lòng: “ Tuy ta đã dùng thần lực cúng dường Phật, nhưng sao bằng lấy thân cúng dường”. Bồ-tát liền uống các chất thơm, kế uống dầu làm bằng các thứ hoa thơm mãn 1,200 năm, rồi lấy dầu thơm thoa thân, dùng áo báu cõi trời quấn mình trước đức Phật Tịnh Minh Đức, rưới các thứ dầu thơm lên áo và dùng sức nguyện thần thông mà tự đốt thân. Ánh sáng tỏa soi 80 ức hằng sa thế giới.
09/11/2010(Xem: 5901)
KHAI THỊ Quyển 1 Hòa thượng Tuyên Hóa Ban Phiên Dịch Việt Ngữ Trường Đại Học Pháp Giới Vạn Phật Thánh Thành Talmage, California
07/11/2010(Xem: 15996)
Theo hiểu biết cơ bản của Phật giáo, tâm hồn về bản chất luôn mang tính sáng suốt và thông tuệ. Thế nên, những rắc rối về tình cảm không hề tồn tại trong bản chất cơ bản của tâm hồn...
07/11/2010(Xem: 7499)
Tối nay, tôi muốn nói về sự thực tập Phật Pháp trong đời sống hằng này. Từ ngữ Phật Pháp - Giáo Pháp – Dharma có nghĩa là phương sách ngăn ngừa. Nó là điều gì đấy mà chúng ta thực hiện nhằm để tránh những rắc rối. Điều đầu tiên mà chúng ta cần phải làm để liên hệ chính chúng ta với sự thực hành Phật Pháp là để nhận ra rằng thực hành Phật Pháp là để hướng tới việc giúp chúng ta tránh khỏi những rắc rối này.
06/11/2010(Xem: 5483)
Chuyện cô nữ tu ngoại đạo Sundarī và kỹ nữ Ciñcā-māṇavikā có sắc đẹp tuyệt trần nhưng lại mang thân phận thấp hèn, hạ liệt; và cả hai đều bị chết thảm, người thì bị giết rồi cái thây bị chôn trong đống rác, người thì bị đất rút với quả báo địa ngục; hai sự kiện ấy đã dấy sinh trong lòng hoàng hậu Mallikā không biết bao nhiêu là câu hỏi, về nhân quả đời này, đời kia cũng như sự “bí mật” của nghiệp!
06/11/2010(Xem: 10128)
Ngày20 tháng tư nhuận năm Quí Mão(11/6/1963) trong một cuộc diễnhành của trên 800 vị Thượng Tọa, Ðại đức Tăng, Ni đểtranh đấu cho chính sách bình đẳng Tôn giáo, cho lá cờ quốctế không bị triệt hạ: tại ngã tư đường Phan Ðình Phùng,Lê Văn Duyệt ( Sài Gòn), lúc 9 giờ sáng, Hòa Thượng QuảngÐức phát nguyện tự tay châm lửa thiêu thân làm ngọn đuốc“ thức tỉnh” những ai manh tâm phá hoại Phật giáo. Dướiđây là tiếng nói tâm huyết cuối cùng của Ngài gửi lạicho đời.
06/11/2010(Xem: 5779)
Ngày nay, ở phương Tây, rất nhiều trung tâm dạy thiền, khí công, yoga… để chữa bệnh cũng chủ yếu là dạy cách thở bụng Nguyễn Khắc Viện là một bác sĩ, sinh năm 1913 tại Hà Tĩnh, học đại học Y khoa Hà Nội rồi sang Pháp tiếp tục học, tốt nghiệp bác sĩ nhi khoa năm 1941. Năm 1942, ông bị lao phổi nặng, điều trị ở bệnh viện Saint Hilaire du Touvet, Grenoble. Thời đó, bệnh lao chưa có thuốc chữa như bây giờ. Từ năm 1943 đến năm 1948, ông phải chịu mổ bảy lần, cắt bỏ tám cái xương sườn, cắt bỏ toàn bộ lá phổi bên phải và một phần ba lá phổi bên trái.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567