Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

02-Nguồn gốc mê tín

01/02/201108:04(Xem: 6216)
02-Nguồn gốc mê tín


CÀNH LÁ VÔ ƯU
Thích-Thanh-Từ

Nguồn Gốc Mê Tín

Mêtín là cái bệnh những nhà trí thức đều chê trách, chánhquyền cũng chủ trương dẹp trừ mê tín. Thế mà bệnh mêtín mỗi ngày một tăng, càng lúc càng lan rộng. Thậm chícó những nước tự cho mình là văn minh nhất thế giới, màdân chúng trong nước ấy vẫn còn mê tín. Ðó là tại sao?

Trước tiên chúng ta phải biếtmê tín là thế nào? Mê tín là lòng tin mù quáng không thấylẽ tật, không đúng chân lý. Ðơn cử một số thí dụ đểchúng ta biết rõ. Như tin ông đồng bà cốt, tin xin xăm bóiquẻ, tin ngày lành tháng dữ, tin số mạng sang hèn,tin coi tayxem tướng, tin cúng sao cúng hạn, tin thầy bùa thầy chú, tincầu cúng tai qua nạn khỏi v.v... Những lối tin này không cólý luận, không đủ bằng chứng, không có lợi ích, nên gọilà mê tín.

Mê tín không phải là sự ngẫunhiên phát sinh mà có nguồn gốc phát xuất cụ thể. Có haithứ nguồn gốc mê tín:

Mê tín do tâmmong cầu- Con người khi mong cầu một điều gì màquá khả năng mình thì dễ sinh mê tín. Ví như có một ngườimuốn vay một số vốn lớn làm ăn, không biết việc làm ănnày sẽ kết quả tốt hay xấu. Tự nhiên lòng họ thấy bănkhoăn lo lắng không biết hỏi ai, tin ai. Nghe nói có ông đồngbà cốt nào đó linh ứng, nói quá khứ vị lai rất trúng,họ liền muốn tìm tới hỏi han. Chỉ tốn tiền quẻ có nămbảy trăm, mà biết việc làm cuả mình thành công hay thấtbại thì an ổn biết mấy. Hoặc trên đường công danh cónhững học sinh, sinh viên đến kỳ thi cử, lo âu thân phậnmình không biết thi đậu hay rớt. Nghe đồn Lăng này, Miếukia linh hiển xin xăm bói quẻ sẽ báo đúng những điều sắpđến, các cô, các cậu không tin vào khả năng học hành củamình, nhất định đi đến xin xăm để hỏi thăm thần thánhxem thế nào.

Mê tín do tâmsợ hãi- Sợ hãi là gốc sinh ra mọi mê tín. Mộtgia đình nọ tiếp tục xảy ra đôi ba người chết "bất đắckỳ tử", những người còn lại đâm ra hoảng hốt, nghe đâucó thầy bùa thầy chú giỏi liền đi rước về ếm đốiđể mình khỏi bị chết trùng. Chính vì sợ hãi mà nhữngngười này sanh mê tín. Có những người bị tai nạn dồndập, vừa té xe bị thương lại bị người giựt nợ, contrai thi rớt, con gái bị bệnh.. mất bình tĩnh, nghe đồn ôngđồng này hay bà cốt kia giỏi, họ liền tìm đến để cầucứu hộ, xin phép lạ về để trừ tai ách. Lại có ngườisắp làm điều mạo hiểm, lo sợ không biết vượt qua mọihiểm nguy được chăng, họ vào am vào miếu để thưa hỏithần linh bằng cách rút xăm bói quẻ. Nếu được xăm tốtquẻ lành thì họ mới mạnh dạn xông pha. Có những ngườimắc bệnh nan y, họ buồn khổ sợ chết. Nghe bất cứ nơiđâu có sự linh thiêng mầu nhiệm, họ đều đi đến đểxin thuốc cầu bùa. Dù phải làm những điều quái dị, họthảy đều chấp nhận, miễn sao lành bệnh là vui. Hoặc cóngười sợ vận sui hạn xấu, nên đầu năm đến chùa cúngsao cúng hạn, cầu cho tròn năm cuộc sống được hanh thông,gia đình được an vui may mắn. Hoặc có người vì thươngcha mẹ đã quá cố, sợ cha mẹ chết rơi vào địa ngục chịuđói khổ nhọc nhằn, họ bèn nhờ thầy cúng dán lầu kho,xe cộ, giấy tiền giấy bạc, lễ cúng đốt xuống cho chamẹ được an hưởng nơi âm ty... Mọi sợ hãi đều là cộinguồn của mê tín.

Là con người có ai không mong cầu,không sợ hãi, đã có hai thứ này thì nhất định sẽ rơivào mê tín dị đoan. Khi chưa gặp việc thì chúng ta chốngđối mê tín, nhưng gặp lúc có việc khắc khoải mong cầu,kinh hoàng sợ hãi, chúng ta cũng trở thành mê tín như ai. Dùlà người có bằng cấp cao, có kiến thức rộng, nếu trongtâm có mong cầu sợ hãi, họ cũng sẽ rơi vào hố mê tín.Có những người đứng trước quần chúng thì miệt thị chêbai kẻ mê tín, song về nhà gặp lúc gia cảnh rối nùi bàxã vẫn đi bói quẻ xin xăm, hỏi quá khứ vị lai nơi ôngđồng bà cốt. Bởi con người mang sẵn tính tham lam, thóihèn nhát, nên khi muốn thỏa mãn sự mong cầu, muốn đượcbình an khi nguy hiểm, đều nảy sinh mê tín dị đoan. Thếnên bệnh mê tín dị đoan là bệnh bẩm sinh có sẵn nơi mọicon người. Muốn chữa lành bệnh này phải là bậc Thánh yvà thần dược mới mong điều trị được.

PhápPhật dạy trị bệnh mê tín

Phật là bậc Thánh y, pháp củaPhật dạy là thần dược, nếu ai tin nơi Phật, dùng thuốcPhật dạy trị mê tín chắc chắn sẽ được lành. Pháp Phậtdạy trị bệnh mê tín có hai thứ:

Nhân quả- Nhân quả là sự thật, là lý đương nhiên mà người đờiít ai nghĩ đến. Bởi con người cố mong cầu cái quả màkhông cân xứng cái nhân. Hoặc họ ước mơ nhặt được nhữngcái quả ngoài tầm tay của họ. Hoặc họ không có tâm tựtín nên làm việc gì cũng ngờ vực lo âu. Ðó là những lýdo khiến họ đâm ra mê tín. Nếu mọi người tự biết rõrằng mọi hậu quả nên hư tốt xấu, thành công thất bạiđều do nguyên nhân hay dở đủ thiếu của con người tạonên. Không có cái quả nào tự trên trời rơi xuống, hoặcdưới đất bỗng dưng hiện lên, mà đều do trí sáng suốtvà sức lao động cần cù của con người tạo ra. Chúng tacứ tạo nhân tốt thật đầy đủ thì quả tốt nhất địnhđến. Ví như chúng ta muốn có quả một cây cam mật, trướcchúng ta phải chọn giống từ cam mật, hoặc chiết cành từcây cam mật. Kế đó, chúng ta phải lựa chỗ đất mầu mỡương giống xuống tồi tưới nước bón phân đúng thời đúnglúc, chăm sóc sâu bọ đừng cho phá hại. Sau này chúng ta sẽthu hoạch được quả cam mật không sai. Chúng ta khỏi phảimong cầu, khỏi phải trông đợi mà quả sẽ thành tựu viênmãn theo sở nguyện của mình. Cũng thế, mọi sự nên hư thànhbại trong đời mình không phải ngẫu nhiên mà đến, khôngphải từ ai ban cho, mà do những cái nhân chúng ta tạo nêntừ trước, khi nhân duyên đầy đủ thì quả thành. Khôngphải chúng ta cầu xin mà nó đến, không phải chúng ta xuađuổi mà nó đi, một khi nhân đã thành thì quả phải chịu.Chúng ta cứ sợ tai ương đổ lên đầu chúng ta, mà lại khôngsợ những nhân xấu do mình đã gieo từ trước. Chúng ta cầuthần khấn Phật ban bố phúc lành cho chúng ta, mà chúng takhông chịu ban ơn bố đức cho những người chung mình. Nhữngnhân xấu kết hợp thành quả xấu, những nhân tốt tụ hộithành quả tốt. Cầu mong quả tốt mà không chịu gieo nhântốt, sợ hãi quả xấu mà không dừng tay tạo nhân xấu, sựcầu mong sợ hãi ấy chỉ là việc không đâu. Chi bằng chúngta ngày cứ tạo nhân lành, tránh nhân dữ, chả cầu mong sợhãi chi hết.

Song nhân quả không phải đơn thuầnmà đa dạng, chẳng phải chỉ do trực tiếp ở đời hiệntại mà lại gián tiếp của nhiều đời. Biết rõ nhân quảtự mình gây tạo, chúng ta can đảm nhận những quả khổmà không chút sợ hãi buồn phiền. Mình làm chủ tạo nhân,chính mình làm chủ thọ quả, còn cầu xin cái gì, cần hỏihan ai nữa. Chỉ mình sáng suốt khi tạo nhân, cần cù nuôidưỡng bảo vệ cho nhân tăng trưởng, thì quả chín mọngsẽ đến tay mình một cách dễ dàng. Chúng ta tin chắc lýnhân quả như thế, mọi mê tín sẽ tan theo mây khói. Ðấylà quyền con người sẽ nằm trọn trong bàn tay cuả chúngta.

Ba cửa giảithoát(Tam giải thoát môn) - ba cửa này là Không,Vô Tướng, Vô nguyện (vô tác). Ðây là người tu đượctrí tuệ thâm hậu thấy suốt con người và ngoại cảnh đúngnhư thật. Khônglà từ con người cho đến muôn vậtđều do nhân duyên kết hợp thành không có chủ thể nhấtđịnh. Bởi căn cứ trên lý nhân duyên, thấy vạn vật khôngcó chủ thể nên nói là "Không". Từ một cái nhà cho đếncái bàn, cái ghế, cây bút chì ... tìm thử cái gì là chủthể của nó. Nếu có chủ thể thì không đợi duyên hợp,đợi duyên hợp mới có thì nhất định không có chủ thể.Ðến con người chúng ta thử tìm xem cái gì là chủ thể củathân này? Như Phật dạy thân này do tứ đại (đất, nước,gió, lửa) hợp thành, thiếu một trong bốn thứ thì thân phảihoại. Ðã là bốn thứ thì thứ nào là chủ ? Có một thứlàm chủ thì thiếu một thứ khác tại sao nó không còn? Bốnthứ này lại thù địch chống đối nhau, đem bốn đứa thùnhốt chung một chỗ thì có an ổn không ? Chúng ta có bổnphận phải nuôi dưỡng điều hòa bốn kẻ thù này bằng cáchchọn những thức ăn uống nào để quân bình chúng. Về tinhthần cũng thế, nội tâm chúng ta có mặt tốt xấu thiệnác đủ thứ, thử hỏi cái nào là chủ. Cho nên nói là đờisống của ta, mà thực sự cái gì là ta? Cái ta chỉ là tưởngtượng chớ không có thực thể. Từ lãnh vực không có thựcthể nhìn sang lãnh vực "vô tướng"thực hợp lý vôcùng. Bởi vì vạn vật không có thực thể nên không có tướngthật (vô tướng) của nó. Cái mà chúng ta trông thấy, sờmó được chỉ là giả tướng của duyên hợp mà thôi. Người,vật chỉ là tướng hư giả. Ðã là hư giả chúng ta có mongcầu để được, sợ hãi khi mất hay không? Thế là tiếnđến "vô nguyện". Bởi thấy thân hư dối, mọi vậthư dối, chúng ta không còn tham sống sợ chết, không còn hammê vàng ngọc. Ðã thấy trên thế gian này không có cái gìđáng mong cầu, đáng sợ hãi, thì còn gì phải khấn nguyền,phải van xin, phải thưa hỏi các vị thánh thần. Dùng trítuệ này dẹp tan mê tín, như chế nước sôi trên băng. Bacửa giải thoát này là đỉnh cao trí tuệ, thấy tận cùngbản chất con người (ngã) và vạn vật (pháp). Chính do thấyrõ bản chất hư dối của chúng, nên gỡ bỏ mọi mê lầmcố chấp, mọi tham lam trói buộc, được tự tại an vui, gọilà giải thoát.

Tóm lại, mê tín là một tệ nạncủa xã hội, nó tạo dựng những con người yếu hèn, mấttự tin, không sáng suốt. Muốn có một xã hội văn minh lànhmạnh chúng ta không thể nào chấp nhận nạn mê tín hoànhhành. Huống nữa trong giới Phật Giáo chúng ta đang kế thừachánh pháp giác ngộ giải thoát của đấng Thế Tôn mà nuôidưỡng chấp nhận mê tín được sao? Thế mà có nhiều Tăngsĩ trụ trì, khi nghe Phật tử than làm ăn sa sút, liền bảođến chùa thầy cầu nguyện cho; nghe con cháu Phật tử sắpthi cử, bảo ghi tên để thầy cầu nguyện cho; nghe Phật tửthan gia đình xảy ra tai nạn, bảo đến chùa thầy cúng saocúng hạn cho ... Ôi thôi vô số chuyện, cái gì thầy cũnglãnh hết, lo hết và bao thầu hết. Ðó là chúng ta đang truyềnđăng tục diệm hay chúng ta dụi tắt ngọn đuốc chánh phápcủa đức Như Lai?


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
31/03/2015(Xem: 9333)
Giới luật và Phẩm Hạnh Huynh Trưởng
31/03/2015(Xem: 18975)
Dianne Perry, (sau này được biết đến qua pháp danh Tây Tạng của cô là Tenzin Palmo) là một vị ni cô người Anh đầu tiên, đã ẩn cư thiền định suốt 12 năm trong một hang động cao 12.300 bộ trên dãy Hy Mã Lạp Sơn, cách ngăn khỏi thế giới trần tục bởi những rặng núi phủ đầy tuyết trắng quanh năm. Tenzin Palmo đã sống một mình và tu tập trong động tuyết này. Cô đã chạm trán với những thú rừng hoang dã, đã vượt qua những cơn lạnh khủng khiếp, những cái đói giết người, và những trận bão tuyết kinh hồn; cô tự trồng lấy thực phẩm và ngủ ngồi trong cái hộp gỗ rộng cỡ 3 bộ vuông (theo truyền thống Tây Tạng, các vị tu sĩ đều tọa thiền trong một cái hộp gỗ như vậy). Cô không bao giò ngủ nằm. Mục đích của Tenzin Palmo là chứng đạo trong hình tướng một người nữ.
29/03/2015(Xem: 19479)
Giảng về diệu lý Bát Nhã của Bộ Kinh Kim Cang là pháp môn bình đẳng. Chúng ta phần đông đều không hiểu cho nên đầu lại thêm đầu, tướng lại thủ tướng đem cái pháp bình đẳng biến thành không bình đẳng.
28/03/2015(Xem: 9231)
Thuyết pháp là hạnh cao quý của người hoằng pháp vì họ là sứ giả của Như Lai, mang ánh sáng của chánh pháp rải đều khắp nhân gian khiến cho muôn người được hưởng cam lồ vị - sống hạnh phúc, chết bình an, hưởng an lạc ở nhàn cảnh, hay giải thoát, niết bàn. Hiện nay, sinh hoạt thuyết pháp phát triển sôi nổi ở nhiều nơi trong nước và hải ngoại.
26/03/2015(Xem: 8405)
Từ khi lộ ánh trăng thiền Tri ân sâu nặng cơ duyên cuộc đời Vô ngôn sáng giữa muôn lời Dấn thân thế sự, chẳng rời Tánh Không. ---
23/03/2015(Xem: 9987)
Từ xa xưa đã có hiện tượng cư sĩ tham gia tu tập Thiền, Tịnh Độ và học tập nghiên cứu Phật Học; nhưng thời cổ đại, việc cư sĩ tại gia học Phật là hành vi tự phát riêng lẻ, không có tổ chức đoàn thể đại chúng cùng tu tập. Trong quá trình lịch sử phát triển của Phật giáo Trung Quốc, các cư sĩ có vai trò rất tích cực trong việc học và hoằng dương đạo Phật, trải qua nhiều thời đại đã xuất hiện không ít những vị cư sĩ có cống hiến lớn lao với đạo. Đến thời nhà Thanh, do mạng mạch truyền thừa bị gián đoạn do đó khiến Phật Giáo suy yếu. Sau đó có cư sĩ Dương Nhân San phát tâm gánh vác, vận động lập ra hình thức đoàn thể cư sĩ để phục hưng Phật giáo. Tiến hành các hoạt động kết tập, in ấn, phát hành kinh điển, mở trường lớp, nghiên cứu Phật giáo, bồi dưỡng nhân tài, cải cách hưng long Phật giáo, đó chính là thời kỳ đầu phát triển của Cư sĩ Phật giáo.
20/03/2015(Xem: 9892)
Nhà sư Alan Piercey là một tu sĩ Phật giáo làm việc tại bệnh viện ở Burnie và cũng từng tham gia bán chocolate để gây quỹ. Đối với những cư dân ở bờ biển Tây bắc Burnie (Tasmania, Úc), thầy được biết đến với nhiều tên gọi, nhưng cái tên phổ biến nhất được lấy từ một bộ phim hoạt hình nổi tiếng. “Pháp danh tôi là Shih Jingang” (phát âm là Cher Gin Gun) - thầy nói. “Thế nhưng hầu hết mọi người sống quanh bệnh viện khu vực Tây bắc tại Burnie này gọi tôi là Sifu (sư phụ).
19/03/2015(Xem: 7961)
Đây không phải là lần đầu tiên tôi được Thọ Bát, được làm “Ni Cô chải tóc bên dòng suối“ một ngày một đêm đâu các bạn ạ! Từ bao năm nay hễ chùa Linh Thứu có lên lịch trình Thọ Bát là có mặt tôi, cho dù ngày ấy tuyết phủ ngập chùa, hay mưa dầm giăng lối. Nhưng chẳng bao giờ tôi tu trọn vẹn được đầy đủ 24 giờ tinh khôi cả, cứ buổi cháo chiều vừa dùng xong tôi đã tìm đường ra xe về nhà để sáng mai lên chùa sớm cho kịp buổi công phu khuya. Hay nhiều khi không thể tham dự được tôi cũng cố lên chùa nghe cho được bài Pháp mới thật hả dạ. Tất cả cũng chỉ vì Gia Duyên còn ràng buộc như câu các Thầy truyền giới vẫn thường đọc trong những buổi Thọ Bát Quan Trai, nên sự thể mới như vậy mà thôi.
19/03/2015(Xem: 7731)
Những Nguyên Nhân Của Hành Động Nầy các Tỳ Kheo, có ba nguyên nhân bắt nguồn của hành động. Ba nguyên nhân nầy là ba nguyên nhân gì? Đó là: lòng tham lam, lòng thù hận, và sự si mê (tham, sân, si). [32] Một hành động khi làm với lòng tham lam, sinh ra từ lòng tham lam, gây ra bởi lòng tham lam, phát sinh ra từ lòng tham lam, sẽ chín muồi bất cứ nơi nào người nầy tái sinh; và bất cứ khi nào hành động chín muồi, người nầy nhận lấy kết quả của hành động, ở trong đời nầy, hoặc là trong đời sau, hoặc là trong những đời kế tiếp sau đó. [33]
19/03/2015(Xem: 8423)
Theo quan điểm của Phật giáo “hạnh phúc” là sự đoạn trừ tâm tham ái, để hiểu rõ vấn đề này, người viết xin chia sẻ quý vị quan điểm này như sau: Chúng ta đang sống trong cõi Ta-bà như mảnh vườn hoang luôn bị chế ngự bởi dục vọng khổ đau, bệnh tật, sầu hận, chết chóc… Con người bao giờ cũng muốn vươn lên từ đời sống thấp hèn để tìm một cái gì đó cao đẹp và an lạc hơn đằng sau bức tường đầy sự hấp dẫn của ngũ dục (tài, sắc, danh, thực, thùy) mà con người cảm nhận qua tri giác hay còn gọi là tham ái.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]