Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Niềm tin vạn năng

19/01/201107:13(Xem: 5148)
Niềm tin vạn năng

TỪ NỤ ĐẾN HOA

(FROM NOVICE TO MASTER
Thiền sư: Soko Morinaga - Biên dịch: Thuần Bạch Ngọc Bảo
Nhà Xuất Bản: Thanh Niên 2007

Phần một: SA DI

Niềm tin vạn năng 

Và thế là tôi đã nhập thiền viện Ðại Ðức và ở đó suốt trong mười lăm năm. Trong thời gian đó, tôi thực tập tọa thiền, rồi dần dà sau đó đã được thầy ấn chứng và tôi cũng đã mắc phải biết bao nhiêu sai lầm. Nhưng dù với tất cả những thất bại ấy, tôi vẫn kiên trì tu tập được, và đó không phải là nhờ những lý lẽ biện luận, mà nhờ những kinh nghiệm cá nhân sống thực. Chính nhờ tôi đã sống trong niềm tin, nên đã vượt qua được những cửa ải khó khăn trong sự nỗ lực tập trung tận cùng, không một lời than van. Thay vì ngã gục khi thấy mình bị dồn vào phía chân tường, dù có vẻ đáng sợ đến đâu, tôi cũng vẫn tự quán xét lại, thẩm định lại, để rồi tiếp tục bước tới. Tôi nghĩ rằng sở dĩ tôi có được sự can trường như vậy là nhờ ở bài học đầu tiên tôi đã nhận lãnh được khi đang cố xin gia nhập vào thiền viện này. 

Hakuin Zenji (Bạch Ẩn thiền sư), người được coi như đỉnh cao của tông Lâm Tế, đã khẳng định rằng ba yếu tố cần thiết để đưa tới sự đạt ngộ trong đường tu cũng như trong bất cứ nỗ lực nào là: đại tín căn, đại nghi đoàn, và đại phấn chí. 

“Niềm tin” (đại tín căn) có nghĩa là tin tưởng nơi thầy mình và nơi chân lý mà thầy của mình là biểu tượng. Nếu phân tích một cách rốt ráo, đó là niềm tin nơi năng lực vô tận của Phật tính mà chúng ta đều vốn đã có sẵn. 

Trong khi cái yếu tố thứ hai, đại nghi đoàn (mối nghi lớn), xem có vẻ như là đối nghịch với sự tin tưởng, nhưng thực ra nó lại khiến ta thường xuyên ý thức đến sự non kém của mình, cũng như ý thức đến vấn đề mà ta vẫn hằng ôm ấp trong tâm. Từ cái lực nội tại của con người, Phật tính, đã sinh ra một truyền thống trí tuệ thật kỳ diệu, và ta tin tưởng vững chắc nơi trí tuệ này. Nhưng khi tự xét đến sự non yếu của chính mình và thấy không thể chấp nhận được, ta sẽ thường mang một vấn đề thắc mắc trong tâm, một sự xung đột nội tại. 

Từ đó ta phải tiến tới trong sự phẫn chí, có nghĩa là kiên trì tu tập trong sự dũng cảm. Trong tiếng Nhật, chữ “phẫn chí” được ghép bằng hai chữ mang ý nghĩa riêng là “phẫn nộ” và “kỳ vọng”. Sự phẫn nộ này không phải hướng đến ai khác mà đến sự yếu kém của chính mình, và vì thế ta vung lên ngọn roi mạnh mẽ của sự kỳ vọng, đó là sự phẫn chí. 

Chẳng phải qua sách vở hay kinh kệ mà tôi đã học được ba yếu tố cần thiết mà ngài Bạch Ẩn đã đề ra cho sự hoàn thành bất cứ mục tiêu gì trong đời. Chính ở trong cuộc sống hàng ngày mà tôi đã luôn luôn phải dùng đến ba yếu tố này. Vì lẽ đó tôi cảm thấy rất trân trọng và biết ơn. Trong hai mươi năm đầu của cuộc đời tôi chỉ hiện hữu một cách nửa vời, và nếu tôi không bị bắt buộc phải sống thực với ba yếu tố này -- niềm tin, sự nghi hoặc, và quyết tâm -- tôi sẽ không bao giờ có được sự kiên trì để vượt qua được những khó khăn tên đường tu Thiền. 

Tin tưởng vào thầy của mình, vào những sư huynh tiền bối của mình, theo truyền thống, nói khác đi có nghĩa là tin tưởng nơi chính mình. Ta phải tự gỡ rối những khuyết điểm của chính mình. Hơn thế nữa, ta còn phải tiếp tục tiến bước, và đứng vững trong mọi thử thách. Dù ở lúc nào, chốn nào, nếu không có ba yếu tố này, ta sẽ không thể hoàn thành được điều gì. Tôi tin chắc rằng dù thế gian này có biến đổi đến thế nào chăng nữa, đây cũng vẫn là ba cột trụ nâng đỡ cho bất cứ những gì chúng ta mong ước thực hiện được. 

Những thầy cô giáo thường xem bổn phận của họ là phải làm sao cho học sinh thích thú để học. Những bậc cha mẹ thường tin rằng làm cha mẹ là phải nuôi nấng những đứa trẻ sao cho chúng càng ít khóc càng tốt, càng ít bị va chạm càng tốt. 

Tôi xin các bạn hãy xét lại những điều này thật cẩn thận. Xã hội chúng ta, mà những đứa trẻ này rồi sẽ gia nhập, có phải là một xã hội có sự thông cảm không? Ðó là một xã hội mà trong đó tâm trí mỗi người đều đầy ắp những vấn đề riêng tư của mình; đó không phải là một thế giới trong đó người ta đối xử với nhau trong sự thông cảm và quan tâm. Ngược lại, đó là một xã hội đầy rẫy những người cảm thấy thích thú khi thấy người khác thất bại, thưởng thức sự nghèo nàn của người hàng xóm như thưởng thức một miếng thịt thơm ngon. Thật đáng tiếc là, xã hội của chúng ta không hề là một xã hội lý tưởng chút nào. Khi trẻ con được dạy dỗ bởi những giáo viên luôn luôn tìm cách làm vui lòng, chiều đãi chúng, để cho chúng muốn làm gì thì làm, và những cha mẹ luôn luôn tìm đủ mọi cách để không cho chúng nếm mùi đau khổ, chịu sự bất tiện, thì điều gì sẽ xẩy ra cho chúng khi chúng bị ném ra ngoài đời trong một thế giới như vậy? Phải chăng đây là trường hợp của nhiều người hiện đang đắm chìm, không nhiều thì ít, trong sự hoang mang, bực bội và thất vọng hàng ngày? 

Tôi tự hỏi tại sao những cha mẹ, thầy cô giáo, và những người lớn khác không sớm sủa tìm cách cung ứng cơ hội và tập cho những con trẻ có thể tự xử dụng được tiềm năng có sẵn nơi chúng, cái tiềm năng mà chúng ta đều có, nhờ vào đấy ta có thể đứng lên tự giải quyết được những vấn đề của mình trong những lúc khó khăn. Chỉ khi chúng ta nếm mùi bất mãn và bực bội, tinh thần vô uý, ý chí quyết tâm muốn vượt qua mọi trở ngại mới dấy lên từ năng lực nội tại, từ năng lực tiềm tàng ấy của chúng ta. 

Và đây chính là điều mà sự tu luyện của một vị thiền tăng đã đem lại. 



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
28/05/2011(Xem: 4904)
Từ khi ra thăm bốn cửa thành, Thái tử Tất Đạt Đa đã cảm nhận những nỗi thiết tha thống khổ của nhân loại khiến Ngài quyết tâm đi tìm một chân lý để cứu giúp chúng sinh còn đang lặng hụp trong biển đời sinh tử trầm luân.
28/05/2011(Xem: 6129)
Chữ niệm nghĩa là nhớ. Chữ Hán viết phần trên là chữ kim, nghĩa là nay, phần dưới chữ tâm, nghĩa là lòng mình. Niệm là điều ta đang nhớ tới, đang nghĩ tới. Mà điều ta nhớ và nghĩ có thể là tà, có thể là chính, vì vậy nên có tà niệm và chánh niệm.
26/05/2011(Xem: 10939)
Nhận lời mời của quý vị, hôm nay có duyên cùng quý vị bàn về tam quy y trong Phật pháp tại Bờ biển Vàng (Golden coast) Queensland- Australia. Ðối với Phật pháp đây là đề tài rất quan trọng, là chỗ nhập môn tu học của chúng ta. Trước khi nói đến tam quy, đầu tiên phải có nhận thức chính xác về Phật pháp.
21/05/2011(Xem: 6448)
Ý tưởng về bồ đề tâm thật không thể nghĩ bàn! Nó khiến cho tất cả những công việc nào không liên quan đến việc làm lợi lạc cho chúng sanh trở nên buồn chán và bất toại nguyện. Ta thật sự sẽ không còn hứng thú hay thưởng thức được đời sống của mình, ngoại trừ công việc đầy ý nghĩa này. Tất cả mọi thứ khác sẽ trở nên vô nghĩa, trống rỗng và không có thực chất.
20/05/2011(Xem: 5682)
Ta cần có những thiện hạnh để chấm dứt những dục vọng vô độ và việc coi mình là quan trọng; cách hành xử tránh điều độc hại như thuốc độc...
19/05/2011(Xem: 14867)
Hầu như ai đến phố Bolsa cũng từng thấy một khất sĩ mà nhiều người gọi là “ông sư ở Phước Lộc Thọ.” Ông mặc bộ áo cà sa vàng, khoảng 40 tuổi, tay ôm bình bát, mắt nhắm nghiền như đang thiền định. Ông đứng từ sáng đến chiều, ngày này qua ngày nọ bất kể thời tiết nóng hay lạnh. Phố Bolsa sáng sáng thường có các nhà sư đi khất thực bên ngoài những cửa tiệm, đặc biệt trong khu chợ ABC ở góc Bolsa và Magnolia. Họ xuất hiện trong vài ngày hoặc vài tuần, xong biến mất như đã hoàn tất một giai đoạn trên con đường tu tập.
18/05/2011(Xem: 20070)
Con được biết - không chắc đúng không - hôm nay 28-4, là ngày Sinh Nhật Sư Phụ tròn 88 tuổi nên con viết vội đôi dòng kính chúc Sư Phụ luôn Phước Thọ tăng long, bách niên thọ thế để hàng đại chúng Bảo Vương của chúng con nói riêng và Giáo hội nói chung luôn có được bóng mát chỡ che tinh thần và trí tuệ của một trong số rất ít còn lại hàng đại lão hòa thượng của PGVN. Riêng con vẫn còn đó một đại tự điển sống về Phật học tinh hoa cũng như về lịch sữ Việt Nam thời cận đại.
15/05/2011(Xem: 5350)
Nhân quả đồng thời được nói một cách cô đọng trong kinh Pháp Hoa, kinh Hoa Nghiêm… và rải rác trong các kinh điển Đại thừa. Có lẽ người đầu tiên dùng thành ngữ “nhân quả đồng thời” là Đại sư Trí Khải (thế kỷ thứ 6) trong Pháp Hoa Huyền Nghĩavà trong các tác phẩm Thiên Thai tông của ngài, y cứ trên kinh Pháp Hoa. Thành ngữ này cũng là một giáo lý chính yếu của Hoa Nghiêm tông vào thế kỷ thứ 7. Nói một cách vắn tắt và đơn giản, nhân quả đồng thời là quả giác ngộ, quả Phật vốn đã nằm nơi nhân tu hành để đạt đến giác ngộ, để thành Phật. Nhân của thành Phật là “nhân địa pháp hạnh của Như Lai” được nói trong kinhViên Giác:
14/05/2011(Xem: 12010)
Xuất phát từ một nhận thức có tính thuyết phục về đạo Phật, quyển "Thuần Hóa Tâm Hồn" được viết với một văn phong hiện đại, trong sáng và tinh tế; nghiêm trang nhưng vẫn đan xen đôi nét hóm hỉnh.
14/05/2011(Xem: 5406)
Phật Đản lại về, cuối xuân đầu hạ, cây đủ lá xanh tràn trề sức sống, hoa sen rộ nở đóa đóa diệu hồng, trắng mát, tỏa hương khoe sắc, như đón bậc vĩ nhân...
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567