Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

11. Cúng Dường Công Đức

06/01/201111:20(Xem: 9346)
11. Cúng Dường Công Đức

 

11
CÚNGDƯỜNGCÔNG ĐỨC

 

Cúng dườngcông đức với Bồ Đề Tâm giống như nhỏ một giọt nước vào biển, chừng nào biển cònhiện hữu thì giọt nước vẫn còn hiện hữu.

Cúng dườngvới Bồ Đề Tâm

HÃY CÚNG DƯỜNGvới lời cầu nguyện rằng, bằng việc nghe từng chữ của luận giảng này bạn có khảnăng chứng ngộ ngay tức thì, toàn bộ đường đạo đến giác ngộ, đặc biệt làbồ đề tâm. Hãy cầu nguyện rằng, mỗi chữ trong các lời dạy này có khả năng điềuphục ngay lập tức tâm của tất cả chúng sinh hữu tình, cầu nguyện rằng toàn bộ conđường đạo đưa đến giác ngộ nhất là bồ đề tâm sẽ nãy sinh trong tâm của họ.

Trong Bồ táthạnh Ngài Shantideva, vị Bồ tát vĩ đại, đã nói:

Tất cảcác phước đức khác thì giống như cây chuối. Khi quả chín thì cây tàn lụi. Nhưngchỉ có cây Bồ Đề Tâm cho quả không bao giờ ngưng.

Cúng dường côngđức để chỉ mong đạt hạnh phúc các đời sau hay giải thoát cho riêng mình thìchẳng đáng kể nếu so sánh với việc cúng dường công đức cầu mong giác ngộvới bồđề tâm. Việc cúng dường công đức với bồ đề tâm cũng giống như nhỏ giọt nước vàobiển. Chừng nào biển còn hiện hữu thì giọt nước vẫn còn. Khi chúng ta cúngdường với bồ đề tâm thì dù công đức nhỏ hay lớn, nó vẫn không thể cạn kiệt.Chúng ta không ngừng hưởng kết quả của công đức cho đến khi đạt giác ngộ. Vàthông qua công đức này, sau khi chúng ta đạt giác ngộ, đến lượt chúng tacó thểtừng bước dẫn dắt chúng sanh đến giác ngộ.

Chúng ta phảicúng dường cho sự phát triển bồ đề tâm. Đây là lý do tại sao vào cuối thời khoágiảng, chúng ta đều tụng :

“jang-chub sem- chog rin-po-che
ma- kye- pa-nam kye- gyur- chig

kye- panyam- pa me- pa- yang

gong- negong- du pel- war shog”

(nghĩa là-ND)

Nguyện choBồ Đề Tâm,

Bây giờ chưaphát triển,

Sẽ nảy sinhlớn mạnh,

Không baogiờ thoái chuyển.

Thật quan trọngkhi cúng dường để phát triển bồ đề tâm, nguồn gốc của mọi hạnh phúc cho bạn vàcho chúng sinh. Và năng lực cầu nguyện là một trong năm năng lực của tu tập. Bồđề tâm là cửa ngõ đưa tới thành công, ngăn ngừa mọi điều không thích, vàmangtới mọi điều ưa thích. Bồ đề tâm sẽ giúp hoàn thành ước muốn của bạn và củanhững người khác. Do đó rất quan trọng khi cúng dường với sự khẩn cầu phát sinhbồ đề tâm trong tâm của bạn và của tất cả chúng sinh hữu tình đồng thời làmtăng trưởng bồ đề tâm của những người đã có tâm đó rồi để không bao giờ thoáichuyển.

Cúng dườngvới tánh Không

Song song vớiviệc cúng dường công đức với bồ đề tâm, bạn hãy cất giữ thật kỹ sự cúng dườngvới tánh Không bằng cách suy nghĩ rằng người cúng dường, hành động cúngdườngvà đối tượng được cúng dường, tất cả đều là không. Với cách thức này công đứcsẽ không bị phá huỷ bởi sân hận hay những thiên vị thành kiến. Sân hận và thànhkiến hay thiên vị không chỉ là nhân tái sinh vào các cõi thấp mà cũng còn làmtrì hỗn việc đạt được các chứng ngộ trong nhiều đại kiếp.

Như Geshe SopaRinpoche đã nói rằng, công đức được xác lập bỡi tánh Không thì sẽ không bị sânhận và ganh tị làm hư hại bỡi vì sân hận và ganh tị nổi lên từ vô minh chấp cóhiện hữu chắc thật, nhưng vô minh này đã bị loại trừ bỡi trí huệ thấy biết tánhKhông . Bởi vì trí huệ này loại trừ được gốc rễ của vọng tưởng và vô minh khư khưtin vào sự hiện hữu thật, cho nên công đức cúng dường sẽ không thể bị hưhạibởi sân hận và ganh tị nếu nó được xác lập bởi tánh Không .

Nếu bạn khôngcó chút hiểu biết gì về tánh Không, về các duyên sinh vi diệu, ngài PabongkaDechen Nyingpo khuyên rằng ít nhất bạn cũng nên nghĩ rằng bạn đang mơ, bạn đangcúng dường công đức trong mơ. Với cách này bạn sẽ không còn chấp coi cáitôi, công đức, chúng sinh hữu tình và sự giác ngộ như là hiện hữu chắcthật. Sự chấp bám này sẽ giảm bớt. Nhận biết mọi sự như thể trong mơ, kiểu cáchnày sẻ cung cấp cho bạn ý tưởng rằng đây này không phải cái tôi thật, một cáitôi hiện hữu tự tánh. Nó cho bạn một ý tưởng sơ khởi rằng toàn bộ nhữngđiều này là giả, rằng không có sự hiện hữu tự tánh. Cùng với sự tỉnh thức này,hãy cúng dường công đức.

Mặt khác nếubạn có được hiểu biết nào đó về tánh Không, bạn hãy nhớ đến thực tại vi diệu vềcách thức mọi sự hiện hữu. Hãy nhớ rằng cái tôi- người cúng dường, đích thị làgán đặt là giả danh, giác ngộ là đích thị gán đặt giả danh, chúng sinh hữu tìnhmà chúng ta cúng dường cho, cũng đích thị gán đặt giả danh. Khi bạn nghĩtớigiác ngộ, sự hiểu biết trong lòng bạn phải là: chẳng qua chỉ là cái đíchthịđược gán đặt giả danh. Và cái mà nó mang lại quả của hạnh phúc, chúng tagọi nólà “công đức”, cũng đích thị được gán đặt giả danh. Do đó tất cả những điềunày: cái tôi, hành động cúng dường, công đức, giác ngộ đều hoàn toàn là không.

Với sự tỉnhthức vi diệu này, nhìn thấy mọi sự đều hoàn toàn là không, và với tâm bồđề bạnhãy cúng dường công đức khi đã lắng nghe những lời giảng dạy này.

* * * *

Dịch xong tiếngViệt, ngày 3 tháng 3 năm 2007.
Rất mong người đọcgóp ý kiến để lần xuất bản sau, cuốn sách này được dịch chuẩn xác hơn. Mọi đónggóp sửa đổi, tái xuất bản, xin liên lạc với người dịch, địa chỉ email: [email protected]

Nguyễn vănĐiểu
Thành phố Hồchí Minh, Việt Nam.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
07/01/2021(Xem: 5543)
Một khuôn mặt trong một tấm gương xuất hiện là một khuôn mặt, nhưng thế nào đi nữa hình ảnh đấy không là một khuôn mặt thật sự; đấy là từ những quan điểm trống rỗng về sự hiện hữu của một khuôn mặt. Giống như thế, một nhà huyển thuật có thể gợi lên những ảo ảnh dường như là những thứ thật sự. như một người ở trong một cái thùng bị xiên bởi một cây gươm, nhưng tất cả hoàn toàn không được tạo ra thật sự như những thứ được thấy. Tương tự thế, các hiện tượng như thân thể hiện diện được tạo ra từ chính phía của đối tượng nhưng trống rỗng trong việc được thiết lập cách ấy và luôn luôn như thế.
04/01/2021(Xem: 5462)
Đức Đạt Lai Lạt Ma đưa ra nhận xét chính thức đầu tiên về việc nghỉ hưu, từ các trách nhiệm chính trị trong một buổi giảng dạy công khai tại Tsuglagkhang, Dharamshala, ngày 19 tháng 3 năm 2011. Năm 1963, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã ban hành một Hiến pháp Dân chủ (democratic constitution) hoàn toàn dựa trên Giới luật Phật giáo, và bản Hiến chương Nhân quyền của Liên Hợp Quốc để biên soạn, và chuẩn bị cho một mô hình đất nước Tây Tạng tự do ở tương lai:
04/01/2021(Xem: 6866)
Ngày Xuân ngày Tết, nếu ai tìm những giờ phút thanh thản yên tịnh bằng những bước nhẹ nhàng khoan thai vào vãng cảnh các chùa chiền tự viện, dâng hương bái Phật, nếu để ý sẽ thấy ở một vách tường nào đó treo bộ tranh mang tên gọi là “Thập mục ngưu đồ”. Không phải chốn già lam thiền viện nào cũng có trưng treo, vì đó không phải là điều bắt buộc thuộc thanh quy giới luật, nhiều khi chỉ được treo để trang trí, hay được trưng ra ở một nơi hằng ngày đi qua đi lại như để nhắc nhở, vậy nếu khi ta bắt gặp được tức là ta đang hữu duyên, hãy đừng bỏ dịp đứng trước bộ tranh mang những nét sơ sài ấy để ngắm từng bức mà chiêm nghiệm nghiền ngẫm.
04/01/2021(Xem: 4251)
Phật Vàng (Golden Buddha) có tên chính thức trong tiếng Thái là “Phra Phuttha Maha Suwana Patimakon”, nặng 5,5 tấn. Sau nhiều lần di chuyển, pho tượng hiện đang nằm trong đền thờ Wat Traimit, Bangkok, Thái Lan. Hiện tại, mặc dù các học giả vẫn chưa xác định chắc chắn nguồn gốc của pho tượng là bắt nguồn từ thời gian nào. Nhưng dựa theo cấu trúc của phần đầu bức tượng (hình quả trứng), thì có thể đoán rằng, nó ra đời vào dưới triều Sukhothai vào thế kỷ 13 – 14 – một trong những giai đoạn nổi tiếng nhất của nghệ thuật kiến trúc Phật giáo Thái Lan.
03/01/2021(Xem: 9070)
Một Số Danh Tăng Việt Nam Tuổi Sửu Thiền sư TRÌ BÁT (Kỷ Sửu 1049) Thiền sư TỊNH THIỀN (Tân Sửu 1121) Hoà thượng THÍCH ĐẠT THANH (Quý Sửu 1853) Hoà thượng THÍCH GIÁC NHIÊN (Đinh Sửu 1877) Thiền sư THÍCH CHƠN PHỔ - THUBTEN OSALL LAMA (Kỷ Sửu 1889) Hoà thượng THÍCH BỬU LAI (Tân Sửu 1901) Hoà thượng THÍCH THIÊN ÂN (Ất Sửu 1925) Hoà thượng THÍCH MINH THÀNH (Đinh Sửu 1937)
03/01/2021(Xem: 5410)
“Con trâu là đầu cơ nghiệp”. Với một nước nông nghiệp như nước ta, hình ảnh con trâu nặng nề lầm lũi, kềnh càng cục mịch luôn gắn bó với những cánh đồng thửa ruộng, thân thiết với bao người nông dân chân lấm tay bùn, và gần gũi với lũ trẻ mục đồng thường nghêu ngao bài hát quen thuộc “Ai bảo chăn trâu là khổ, chăn trâu sướng lắm chứ!”… Không chỉ như thế, trâu cũng đã từng gắn bó với cuộc đời một vài danh nhân lịch sử như Đinh Bộ Lĩnh, Đào Duy Từ… Đối với nền văn học nước nhà, con trâu còn có cái công rất lớn trong việc làm phong phú ngôn ngữ, nhất là trong ca dao- đồng dao-tục ngữ.
01/01/2021(Xem: 5032)
Từ lâu các kinh sách Phật Giáo Việt Nam bị ảnh hưởng bởi ngôn ngữ âm Hán Việt của Trung Quốc. Từ những được chư tôn thiền đức Tăng Ni chuyển qua quốc ngữ tiếng Việt, để Phật tử dễ đọc, nhất là những vị chưa có kiến thức về âm Hán Việt. thế kỷ 20 (năm 2000 trở đi) các kinh sách dần dần đã Người biên soạn xuất gia tại Chùa Liên Hoa, Bình Thạnh, với Tôn Sư Hải Triều Âm, các kinh sách trong Chùa tụng bằng tiếng Việt do Tôn sư chuyển ngữ. Từ năm 2005 trở đi, người biên soạn định cư và hoằng pháp tại Hoa Kỳ. Nhiều Chùa ở Hoa Kỳ vẫn còn tụng kinh bằng âm Hán Việt và nhiều nơi phải tụng bằng tiếng Anh cho người bản địa và thế hệ con cháu thứ hai sanh tại Mỹ có thể tụng hiểu được. Phật tử Việt tụng kinh bằng tiếng Việt mà vẫn chưa hiểu được ý nghĩa ẩn sâu trong lời kinh và càng bối rối hơn khi tụng kinh bằng bằng âm Hán Việt. Đó là lý do thúc đẩy, chùa Hương Sen biên soạn một cuốn “NGHI LỄ HÀNG NGÀY” bằng tiếng Việt và tổng hợp gần 50 bài kinh:
01/01/2021(Xem: 5622)
Trong kho tàng văn học của Việt Nam và Phật Giáo, Trần Thái Tông (1225 - 1258) đã có những đóng góp vô cùng to lớn và giá trị, những sáng tác của Ngài, bất hủ qua dòng thời gian, tỏa sáng lồng lộng trên bầu trời Dân Tộc và Đạo Pháp. Trần Thái Tông được kể như một vị Thiền sư cư sĩ vĩ đại, nhà thiền học uyên thâm, thành tựu sự nghiệp giác ngộ. Một vị vua anh minh dũng lược, chiến thắng quân Nguyên Mông giữ gìn bờ cõi, đem lại cường thịnh ấm no cho dân cho nước, đã để lại tấm lòng cao quý thương yêu đời đạo, lưu lại di sản trí tuệ siêu thoát cho hậu thế noi theo.
29/12/2020(Xem: 6121)
Tịch tĩnh bất động hay định lực có thể đè nén những cảm xúc chướng ngại ẩn tàng, nhưng nó không thể loại trừ hoàn toàn chúng. Tuệ giác nội quán là cần thiết bởi vì như được giải thích trước đây, nó có thể loại trừ hoàn toàn những cảm xúc phiền phức và những rối rắm hậu quả của chúng. Thiền ổn định (chỉ) và thiền phân tích (quán) bây giờ phải làm việc với nhau. Khi chúng thể hiện chức năng cách này, chúng có thể nhổ gốc những cảm xúc phiền phức và loại trừ những giới hạn của thông tuệ vì thế chúng ta có thể hoàn thành mục tiêu tối hậu của việc giúp đở những kẻ khác một cách hiệu quả hơn.
29/12/2020(Xem: 5145)
Thơ thiền Nhật bản là cả một thế giới thi ca độc đáo, tiêu biểu cho tư tưởng và chủ trương tu tập của thiền học Zen, nhất là qua một thể thơ cực ngắn gọi là haiku. Điểm đáng lưu ý và cần nêu lên trước nhất là thơ thiền Nhật bản khác hẳn với thơ Đường của Trung quốc. Một số học giả, kể cả các học giả Tây phương, dường như đôi khi không nhận thấy được sự khác biệt này khi mang ra phân tích và tìm hiểu tinh thần Phật giáo chung cho cả hai thế giới thi ca trên đây.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]