Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

6. Điều Phục Tâm

06/01/201111:11(Xem: 9387)
6. Điều Phục Tâm

 

6
ĐIỀU PHỤC TÂM

 

Nếu bạn lơlà trong việc bảo vệ tâm
Bạn không thểđóng cửa đau khổ

và cũng khôngthể mở cửa hạnh phúc

Đừng làm nhữngđiều phi đạo đức

Hãy làm nhữngđiều đạo đức hoàn hảo

Hãy điều phụctâm của bạn

Đây là giáo lýcủa Phật.

KHI CHÚNG TÔIcùng nhau trì tụng đoạn kệ này của Đức Phật và như ngài Kirti Tsenshab Rinpochegiải thích, chúng tôi nhớ rằng đoạn kệ có chứa Tứ Diệu Đế. Bạn đang chịuđựng sựkhổ thật sự (Đế đầu tiên)–chẳng ai ước muốn khổ – và bạn cần đạt hạnh phúc tốithượng chấm dứt mọi khổ đau (Đế thứ 3), điều này tuỳ thuộc vào việc chấmdứttoàn bộ các nhân đích thật của khổ (Đế thứ 2); và việc đạt được điều nàytùythuộc vào việc làm cho toàn bộ con đường Đạo chân thật trở thành hiện thực (Đếthứ bốn).

Điều cốtlõi của đoạn kệ này là khuyên không can dự vào bất kỳ hành động phi đạo đức nàocả. Nếu nghĩ rằng nguồn gốc của khổ đau và các vấn đề của cuộc sống là từ kháchquan bên ngoài thì ý nghĩ đó chính là vấn đề. Không coi tâm là nguồn gốccủacác vấn đề và đổ lỗi cho các tác nhân bên ngoài như người khác, đối tượng khác,thái độ đó chỉ tạo thêm nhiều vấn đề hơn. Suy nghĩ theo kiểu này – và cũng chorằng hạnh phúc đến từ bên ngoài – là chúng ta chẳng đếm xỉa gì tới tâm cả. Tâmnày từ vô lượng kiếp trước đã không được điều phục giờ đây vẫn để y nguyên nhưvậy, vẫn đang không được điều phục. Chẳng có gì tốt hơn, chẳng có gì thay đổi.Chúng ta liên tục tạo ra nhân đau khổ cho các kiếp sau và tạo ra các vấnđềngay đây trong đời này.

Thật tốt khiliên hệ đoạn kệ này với các vấn đề trong qúa khứ, đặc biệt có hiệu quả khi ápdụng “ điều phục tâm của bạn” đối với sự kiêu mạn, sân hận, ganh tị, hammuốnvà sự vô minh dày đặc. Điều phục những vọng tưởng (phiền não) này là giáo lýcủa Đức Phật. Không điều phục chúng thì không phải giáo lý của Đức Phật –nóicách khác, không làm gì để giải quyết vọng tưởng nhưng lại bận rộn làm nhữngviệc khác và coi đó là tu tập tâm linh thì không phải là giáo lý của ĐứcPhật.

Vọng tưởng làmcho tâm không vui, không an, không thuần phục. Mặc dù các hành động của chúngta trông giống như Pháp và được gọi là “Pháp” hay “tu tập tâm linh” nhưng nếuchúng không phá hủy vọng tưởng thì chúng không phải là giáo lý của Đức Phật. Cómột định nghĩa về Pháp là “bất kỳ thứ thuốc nào mà chữa trị được vọngtưởng”. Nếu có một hành động được thực hiện dưới danh nghĩa Thiên Chúa giáo haymột tôn giáo nào khác mà là thuốc chữa trị vọng tưởng – điều phục sân, tham, sivà ích kỷ – thì đó là Pháp. Bất cứ cái gì mà không phải là thuốc chữa trị vọngtưởng thì không phải là Pháp. Như đức Dalai Lama có nói, Pháp là bất cứ điều gìmàsửa chữa được hay an định được tâm. Khi có một đồ dùng nào bị hư thì việc sửachữa nó là tốt bởi vì làm cho bạn vui và nó sẽ là phương tiện có ích chocuộcsống của bạn và của người khác. Cũng vậy, Pháp là sửa chữa tâm. Phương pháp nàomà không phá hủy được vọng tưởng thì không an định được tâm. Không có cách nàocải thiện được tâm mà không loại trừ vọng tưởng. Vọng tưởng cần phải được loại trừ.

Để mang lạihạnh phúc cho bản thân và cho những người khác, Pháp phải là thuốc chữa vọngtưởng. Nếu Pháp hỗ trợ vọng tưởng thì không cần biết chúng ta tu tập baonhiêu chúngta sẽ không thấy có sự cải thiện ở trong tâm; ngược lại, tâm sẽ trở nên mỗi lúcmột tồi tệ hơn: càng không được thuần phục hơn, càng khó khăn hơn. Dù chúng tacó thể luôn đang nghe giảng Pháp, thuyết Pháp, đọc Kinh điển, hay đang sốngtrong một trung tâm Phật Pháp, thậm chí cả cuộc đời luôn có liên hệ với Pháp,nhưng nếu vọng tưởng gia tăng thì việc tu tập tâm linh hóa ra là đang hỗtrợcho vọng tưởng thay vì phá huỷ chúng. Nếu kiêu ngạo, sân hận, ham muốn và nhữngthứ tương tự gia tăng thì việc tu học Pháp của bạn đang tạo ra thêm nghiệp bấtthiện thay vì tịnh hóa những nghiệp bất thiện có sẵn trước.

Để nhận đượchạnh phúc từ Pháp, việc tu tập của bạn phải làm sao phá hủy được vọng tưởng. Vídụ như dược phẩm, nếu làm cho bệnh phát sinh hay nặng thêm thì thuốc đó không chữađược bệnh mà còn làm lệch hướng việc chẩn và trị bệnh. Thuốc là thứ dùngđể trịbệnh chứ không làm bệnh trầm trọng hơn.

Câu “điều phụctâm của bạn” chỉ vỏn vẹn mấy chữ, nhưng ý nói là phải giải quyết toàn bộcác chechướng (quan niệm sai-ND) từ việc thấy những khuyết điểm của vị thầy chotớinhững quan niệm nhị nguyên vi tế về ba tri kiến liên quan đến giai đọan chuẩnbị màu trắng, giai đọan phát triển màu đỏ, giai đoạn thành tựu màu đen và ngaycả che chướng sau cùng và vi tế nhất là ngăn cản sự thành tựu tâm giác ngộ(Phật tâm). “Điều phục tâm của bạn” giải quyết toàn bộ các quan niệm saitráinày.

Câu cuối củabài kệ nói “Đây là giáo lý của Đức Phật” bởi vì điều phục tâm bạn là nguồn gốccủa hạnh phúc. Điều phục tâm bạn là giáo lý chính của Đức Phật. Từng mỗilời màĐức Phật dạy là nhắm tới việc điều phục tâm riêng của mỗi chúng sinh; ngoài rakhông có mục đích nào khác. Từng mỗi lời trong tất cả 84.000 Kinh điển –Kinhcủa Tiểu thừa, Đại thừa, Kim cang thừa – là nhằm điều phục tâm.

Hãy nhớ đến sựưu ái của Đấng Thế tôn Đại Từ Đại Bi Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni, khi giảng dạy toànbộ các giáo lý của cả hai đường Đạo: nhân thừa và quả thừa. Đức Phật đã phát lộcon đường hoàn hảo đưa đến giác ngộ thông qua nhiều mức độ giảng dạy khác nhauphù hợp với các căn cơ tâm thức của chúng sanh hữu tình. Giờ đây chúng ta có tựdo và cơ hội để lắng nghe, soi rọi và thiền định trên đường đạo vô cấu này;chúng ta có thể tạo ra nhân vô cấu cho bất kỳ mức độ hạnh phúc nào chúngta muốn.Được như vậy là nhờ vào sự ưu ái của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni khi Ngài bannhững lời giảng.

Đức Thích CaMâu Ni Phật khai mở con đường dẫn dắt chúng ta đến hạnh phúc; con đường theo đóchúng ta có được tự do để hiểu và tạo ra nhân để có hạnh phúc trong các đời sau,giải thoát và giác ngộ. Ngài giúp chúng ta phát triển tiềm năng của chúng ta,tức Phật-tánh của chúng ta. Gặp được Phật Pháp, tu tập theo đó, chúng tacó thểphát triển Phật-tánh của chúng ta và nhờ vậy mà đạt giác ngộ.

Bằng cách thiềnđịnh con đường mà Đức Phật phát lộ, từng bước chúng ta có thể phát triểnPhật-tánh của mình và do đó có thể hoàn thành ước nguyện cứu giúp chúng sinh hữutình. Chính nhờ sự ưu ái của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni mà chúng ta có thểthànhtựu trí huệ siêu việt của tâm, năng lực toàn triệt và đại bi viên mãn vìlợiích cho tất cả chúng sinh hữu tình.

Mọi sựbao gồm cả hạnh phúc lẫn khổ đau đều tùy thuộc ở tâm. Nếu không điều phục tâmthì khổ đau nổi lên; chính tâm sản xuất khổ đau này. Bằng việc điều phụctâm,bạn hưởng được hạnh phúc. Đây là lý do tại sao hạnh phúc của chúng sinh hữutình tùy thuộc vào sự hiện hữu của các giáo lý của Đức Phật.

Bởi vì mọi sựđều tuỳ thuộc vào chính tâm của chúng ta, nên chúng ta phải điều phục tâm mình.Chúng ta phải loại bỏ những suy nghĩ sai trái, chúng là nhân của khổ đauvàchúng mang vấn đề đến cho bản thân chúng ta và cho vô lượng chúng sinh khác,đời này và liên tục các kiếp sau. Nếu những suy nghĩ sai trái được loại bỏ thìchỉ còn có hạnh phúc, không còn nhân của các vấn đề, không có kẻ sáng tạo của vấnđề. Càng loại bỏ những quan niệm sai trái thì càng có hạnh phúc.

Che chở tâmcủa bạn

Trong tác phẩmBồ Tát Hạnh, Shantideva giải thích:

Cọp, sưtử, rắn, kẻ thù, người canh giữ địa ngục, các mụ phù thủy và kẻ ăn thịt người,tất cả đều bị trói lại chỉ bằng một việc là cột giữ tâm này.

Kiềm giữ tâmkhỏi suy nghĩ bất thiện, không cho phép tâm chạy theo cơn giận hay ham muốn, vôminh vân vân …, có nghĩa rằng bạn ngừng tạo ra nghiệp xấu ác. Khi bạn ngăn ngừatâm bạn khỏi bị vọng tưởng lôi kéo thì bạn không tạo ra nghiệp bất thiệndo vậybạn không chịu đựng quả mà các chúng sinh khác hại bạn và gây nguy hiểm cuộcsống của bạn.

Ví dụ,Devadatta luôn ganh tị cố tìm cách hãm hại Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. Vàomột ngày, khi Đức Phật đang đi khất thực, Devadatta đem một con voi điêntớitấn công Đức Phật. Tuy nhiên thay vì gây nguy hại Đức Phật, con voi trở nênhoàn toàn bị thuần phục ở trước mặt Ngài. Tôi cũng nghe rằng con muỗi không baogiờ chích ngài Song Rinpoche. Và có một câu chuyện tương tự về thánh St.Francis ở Assisi, nước Ý; người sống cùng thời đại với Milarepa, vị đại Hànhgiả du-già Tây tạng, người đạt giác ngộ trong một đời người ngắn ngủi.

Có một con chósói sống trong rừng, nó hại nhiều người. Khi thánh Francis nghe được chuyện đó,ngài nói: “Tôi sẽ đến nói chuyện với con chó sói”. Mặc dù có người khuyên đừng đinhưng ngài vẫn giữ quyết định.

Thánh Francisđi vào rừng. Khi con chó sói đến gần ngài, thay vì hại ngài, nó bị ngài khuấtphục hoàn toàn. Giống như một con chó nuôi đi theo chủ, con chó sói trở nênthuần phục đến nằm bên cạnh và liếm chân ngài. Thánh Francis nói với conchósói rằng ngài sẽ cho nó thực phẩm và nó không được cắn người nữa. Từ đó trở đi,con chó sói không còn tấn công người dân.

Nhục thể củaThánh Francis hiện còn giữ ở Assisi, gần Trung tâm Lama Tsong Khapa ở Ý.LamaYeshe và tôi đã viếng Assisi. Lama Yeshe đã thiền định một lúc ở ngôi mộnơithân thiêng liêng của thánh Francis lưu ở đó. Có một thác nước gần Assisi và người ta nói rằngnếu nước bị cạn thì sẽ rất xui xẻo cho nước Ý. Thánh Francis có một đệ tử nữ tuvà người này có đến ba trăm đệ tử. Trong lúc ngài Francis còn sống, một trongnhững hang động bị nước từ trên mái nhỏ xuống. Một số đệ tử than phiền rằng họchẳng thiền định được vì tiếng nước rơi. Thường ngày thánh Francis gọi các đồvật là “em gái”, “em trai”. Ngài nghe học trò than phiền như vậy, liền đến hangđộng đó và nói với nước: “Em gái, hãy ngừng rơi vì học trò của tôi chẳngthiềnđịnh được”. Nước liền ngưng rơi.

Những câuchuyện như vậy là rất thông thường như trong các chuyện kể về cuộc đời các vịBồ tát. Nhiều câu chuyện kể về các hành giả du già Ấn Độ và Tây tạng yêucầunước sông ngừng chảy để họ đi qua sông sau đó nước chảy trở lại. Ở Tây tạng khicó trận lụt đang dâng nước đến gần tu viện của Bồ tát Jampa Monlam, ngàiliềnviết lên một tảng đá câu “nếu đúng sự thật tôi có bồ đề tâm thì xin nướchãythối lui”, rồi ngài đặt tảng đá ngay trước hướng nước lụt đang dâng đến;nướclụt lập tức rút đi. Những câu chuyện như vậy chứng minh được năng lực bồđềtâm, thiện tâm tối thượng.

Bằng việc cộtchặt tâm vào đạo đức, che chở nó khỏi vọng tưởng, bạn sẽ không tạo ra nghiệpxấu ác, nên sẽ không có gì nguy hại cho cuộc đời của bạn. Cũng vậy, do có bồ đềtâm, bạn sẽ điều phục được tâm mình. Cột chặt tâm bạn với đạo đức và tránh xanhững suy nghĩ phiền muộn thì giống như giam giữ hết tất cả những chúng sinh nguyhiểm như: cọp, rắn, kẻ gác cổng địa ngục, kẻ thù. Nếu bạn có bồ đề tâm ngay cảnhững hiểm họa thiên nhiên (động đất, núi lửa vân vân – ND) cũng không thể hại bạn;nhờ vào năng lực bồ đề tâm, bạn có khả năng kiểm soát được tai họa thiênnhiên.Bằng cách cột chặt một tâm này với bồ đề tâm, bạn ngăn cản được tất cả vô sốcon thú hung dữ và kẻ thù. Huấn luyện làm thuần thục một việc này thôi tức làtâm của bạn, bạn sẽ thuần hóa được tất cả những việc khác nữa.

Bạn không thểthực hiện được ý muốn giam hết tất cả các con thú hung dữ trên quả đất này vìbạn không thể sống mãi mãi. Và cho dù bạn sẽ không tái sinh ở quả đất này bạncũng sẽ tái sinh ra ở một hành tinh khác, chừng nào bạn còn nghiệp và vọngtưởng bạn sẽ gặp kẻ thù và thú hung dữ ở đó. Chừng nào tâm bạn chưa đượcđiều phụcthì luôn có sự hãm hại từ bên ngoài. Nhưng một khi tâm được điều phục, một khikhông còn sân hận trong giòng tương tục tâm thức thì sẽ không còn kẻ thùbênngoài. Khi nào cơn giận không thể nổi lên trong bạn thì bạn không còn tìm thấykẻ thù ở đâu cả. Kẻ thù bên ngoài chỉ xuất hiện khi có cơn giận ở bên trong.

Không vọngtưởng sẽ không có nghiệp bất thiện, cho nên sẽ không có ai hại bạn. Thêmvàođó, khi tâm bạn đạt được sự nhẫn-nhục-tự-tánh thì dù có ai đó chê bai, đánh haygiết bạn, bạn vẫn nhận ra được là không có kẻ thù bên ngoài. Khi bạn đạtđượcnhẫn nhục ba-la-mật (một trong sáu ba-la-mật) bạn sẽ thấy người khác là bạn tốtnhất của bạn ngay cả khi họ đang phê bình, đánh hay đang giết bạn. Chừngnàotâm bạn ở trong nhẫn-nhục-tự -tánh bạn lúc đó không thấy có kẻ thù bên ngoàiđang hại bạn mà chỉ có người đang làm lợi cho bạn. Nhưng ngay khi tâm thay đổi,chuyển sang giận dữ thì bạn thấy con người đó đang hại bạn.

Luận giảng Khaimở Cánh cửa Pháp có nói:

Có lợi gìđâu cho những lời dạy khác với lời dạy bảo vệ tâm?

Sẽ rất tốt khibạn nhớ điều này trong cuộc sống hàng ngày. Nếu bạn quên bảo vệ tâm của mìnhthì có ích gì đâu với các truyền thống giữ giới khác? Nếu tâm không đượcbảo vệbạn không thể chận đứng được khổ đau và các vấn đề của bạn. Dù cho bạn có thểtu tập hàng trăm việc khác nhưng nếu bạn bỏ qua việc tu tập quan trọng nhất này(che chở tâm – ND) thì bạn không thể chận đứng các vấn đề và không thể đạt hạnhphúc đặc biệt là hạnh phúc tối thượng. Rất cần để nhớ điều này. Có ngườitrì tụngrất nhiều kinh cầu nguyện, hàng triệu mật chú suốt ngày nhưng nếu họ quên khôngtự che chở tâm thì việc tu tập hằng ngày trở nên lãng phí vô ích. Tâm bạn lànguồn gốc của tất cả khổ đau và hạnh phúc riêng của bạn. Nếu bạn lơ là việc chechở tâm thì bạn không thể đóng cánh cửa vào khổ đau và cũng không thể mởcánhcửa vào hạnh phúc.

Ở phương tây cónhiều luật lệ: bạn không thể làm điều này, bạn không thể làm điều kia. Đôi khitôi nghĩ rằng đã có quá nhiều luật. Có một lần tôi tới Sydney ngụ trongmột nhà có hồ bơi và phòngxông hơi nóng. Có vài người đang chơi ở hồ, nhảy từ bục gỗ cao. Người láng giềngbực mình. Họ than phiền nhà chúng tôi quá ồn và họ gọi cảnh sát.

Tôi đang ởtrong phòng. Tôi không thấy bên ngoài nhà nhưng tôi nghe có cảnh sát tới. Thấykhông có gì, cảnh sát bực bội bỏ đi. Người láng giềng trước đó báo cảnh sát lànhững người ở trong hồ bơi quấy nhiễu họ. Cảnh sát cho rằng người láng giềngnói vô lý, uổng công họ từ ngoài thị trấn lái xe vào. Cũng ngay buổi chiều hômđó trẻ con nhà láng giềng đã chơi đùa ầm ĩ.

Không cần biếtcó bao nhiêu luật lệ đã được đặt ra; chừng nào việc bảo vệ tâm không được chú ýở trường tiểu học, ở đại học hay trong nếp sống văn hóa thì luôn có các vấn đềxảy ra, tiếp tục xảy ra. Mọi người phải che chở tâm của mình. Thay vì nói “mỗingày ăn một quả táo thì bác sĩ không đến nhà” chúng ta có thể nói “mỗi ngày cóche chở tâm, cảnh sát không đến nhà”!

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
11/03/2021(Xem: 4795)
Cách nay chừng vài tuần lễ tôi nhận được một phong thư dày gửi đi từ Thầy Thanh An ở Tích Lan, trong đó có quyển sách trên. Sách do nhà xuất bản Hồng Đức ấn hành năm 2020, in loại bìa cứng mạ vàng rất trang nhã. Tất cả có 180 trang chữ nhỏ. Tác giả là một vị Hòa Thượng người Tích Lan đã ở Hoa Kỳ lâu năm, và dĩ nhiên là Hòa Thượng Gunaratana đã dịch và tham cứu từ bản tiếng Pali, vốn là những Kinh điển gốc của Phật Giáo Nam Truyền và Ngài đã viết cũng như bình chú bản kinh nầy bằng tiếng Anh nhan đề là: Meditation on Perception-Ten Healing Practices to Cultivate Mindfulness. Thầy Thanh An là một nghiên cứu sinh về Phật Giáo ở bậc Tiến Sĩ tại Đại Học Kelaniya, Tích Lan. Thầy Thanh An cho biết đây là tác phẩm đầu tay của Thầy ấy dịch từ Anh Văn ra Việt Văn.
11/03/2021(Xem: 4336)
Chính quyền Trung ương rất mong muốn quảng bá việc Nghiên cứu Phật giáo tại Ấn Độ, và đang chuẩn bị sẵn sàng một cơ sở dữ liệu hoàn chỉnh về các trường Đại học Ấn Độ, cung cấp các chương trình Phật học. The University Grants Commission (UGC) đã gửi một Chỉ thị đến tất cả các trường học để cung cấp dữ liệu liên quan về các chương trình học liên quan đến Phật giáo. Điều này được cho là sẽ hồi sinh Ấn Độ, như một trung tâm nghiên cứu và truyền thống Phật giáo trên toàn thế giới.
10/03/2021(Xem: 7721)
Cư sĩ Quảng Hải Phan Trung Kiên sinh năm Nhâm Dần (1962) tại Phường Tân Thái, Quận 3, Đà Nẵng (nay là Phường Mân Thái), là người con thứ ba trong gia đình có 9 anh em (5 trai, 4 gái). Vượt biên cùng với Ba và 3 anh em trai vào tháng 6 năm 1981 và định cư đến Mỹ vào cuối tháng 3 năm 1982. Má và các em gái cùng em trai út vượt biên năm 1988 và cả gia đình sum họp tại Hoa Kỳ vào năm 1989.
09/03/2021(Xem: 4264)
Đài Bắc, Đài Loan: Vào ngày 7 tháng 3 vừa qua, trong một cuộc mít tinh đông đảo do Hiệp hội Phúc lợi Tây Tạng Đài Loan (在 台 藏人 福利 協會) và Mạng lưới Nhân quyền cho Tây Tạng, Đài Loan (西藏 台灣 人權 連線 會), hơn 34 tổ chức phi chính phủ từ khắp đất nước Đài Loan, đã cùng tham gia kỷ niệm 62 năm ngày tổng khởi nghĩa chống Tàu cộng xâm lăng 10/3/1959-10/3/2021. Cuộc mít tinh cũng đánh dấu kỷ niệm gần 70 năm ngày Ký kết Thỏa thuận 17 điểm giữa Tây Tạng và nhà cầm quyền Đảng Cộng sản Trung Quốc.
09/03/2021(Xem: 4771)
Cái gì là “Không thường cũng không đoạn”?Ý nghĩa “Không Thường” chính là tất cả sự vật không phải cố định vĩnh cữu bất biến, mà là thời khắc nào cũng bị biến đổi mãi mãi.Ý nghĩa “Không Đoạn” là chỉ trong chỗ biến đổi này chưa từng có dừng lại, cũng chính là chưa có phút giây nào “Gián Đoạn”.Giả sử như sự sự vật vật trong thế giới này đích thực có thật tại thì không cần phải phát sanh ra hiện tượng “Không”.Hôm qua có mà hôm nay không thì đây chính thuộc về “Đoạn”.Còn nếu như có vĩnh cữu thì đó chính thuộc về “Thường”.Thử hỏi thế giới hiện thật đây là “Đoạn” như thế nào và “Thường” như thế nào? Đúng ra sự sự vật vật trên thế giới đều là “Không, không phải thường cũng không phải đoạn”.
09/03/2021(Xem: 8617)
Anton đã nói với tôi rằng một người bạn nổi tiếng của ông một lần nọ đã lưu ý rằng hầu hết những nhà vật lý lượng tử liên hệ đến lãnh vực này thì ở trong phong thái tâm thần phân liệt. Khi họ ở trong phòng thí nghiệm và chơi đùa với mọi thứ, thì họ là những người thực tế. Họ nói về những quang tử (photon) và điện tử đi đây và đi đó. Tuy nhiên, lúc chuyển sang việc thảo luận triết lý, và hỏi họ về nền tảng của cơ học lượng tử, thì hầu hết sẽ nói rằng không có gì thật sự tồn tại mà không có cơ cấu nhận – định nó.
08/03/2021(Xem: 4040)
Dharamshala: Danh sách tham gia ngày càng tăng, bởi các nhà lãnh đạo thế giới đã được tiêm vaccine COVID-19, vào đầu giờ hành chính ngày 6 tháng 3 vừa qua, Đức Đạt Lai Lạt Ma tiêm liều vaccine COVID-19 đầu tiên tại Bệnh viện Zonal, Dharamshala, H.P., Ấn Độ. Sau khi tiêm liều vaccine COVID-19, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã kêu gọi tất cả những người đủ điều kiện, đặc biệt là ‘bệnh nhân bị nhiễm covid-19’ hãy vì lợi ích chung cho xã hội, nhanh chóng đăng ký tiêm liều vaccine COVID-19. “Điều này rất quan trọng, vì vậy tôi đã thực hiện việc tiêm vaccine COVID-19, tôi muốn chia sẻ nhiều người nên đã can đảm để thực hiện tiêm liều vaccine COVID-19 đầu tiên tại Bệnh viện Zonal.
07/03/2021(Xem: 7180)
Huế, cố đô một thời, là thành phố nhỏ bé như vậy mà lại có nhiều chùa nhất so với các miền khác trên toàn lãnh thổ Việt Nam. Bởi, nơi đây có chiều dài lịch sử lập quốc của nhà Nguyễn từ khi người đầu tiên khai mở là Nguyễn Hoàng, muốn tránh sự sát hại của người anh rể là Trịnh Kiểm nên xin đi xa vào Nam để khai khẩn đất hoang theo sự vấn kế của Nguyễn Bỉnh Khiêm qua câu phán: “ Hoành sơn nhất đái, vạn đại dung thân.“ Và, Chùa Thiên Mụ danh Tự có từ đó. Đứng đầu bảng trong 10 ngôi chùa nổi tiếng tại Huế.
07/03/2021(Xem: 4784)
“Ai thấy Pháp người ấy thấy Ta, ai thấy Ta người ấy thấy Pháp”. Đây là lời dạy của đức Phật dành cho tỷ-kheo Vakkali. Lời dạy này được ghi lại trong Kinh Tiểu Bộ và Kinh Tương Ưng; do Hòa thượng Minh Châu dịch từ tiếng Pàli sang tiếng Việt. Trước khi tìm hiểu lời dạy trên của đức Phật, chúng ta cùng nhau tìm hiểu về ngài Vakkali một chút.
06/03/2021(Xem: 4626)
Kính bạch Thầy nhân ngày phụ nữ sắp tới và còn trong tháng giêng, con chợt nghe bài hát này , nhớ đến trong bài pháp thoại Thầy kể về cụ bà Tâm Thái . Kính dâng bài thơ này đến Cụ Bà Tâm Thái và những bà mẹ từ thôn quê đến thị thành nhân ngày phụ nữ . Kính, HH Lễ hội 8/3 ngày phụ nữ bình đẳng ! Những bà mẹ quê ....từ sáng tinh mơ, Có khi nào nghĩ đến quyền lợi bao giờ. Sáng chiều vất vã hy sinh trong lặng lẽ !
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]