Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Lời Nói Đầu Của Người Biên Tập

06/01/201111:01(Xem: 10946)
Lời Nói Đầu Của Người Biên Tập

 

LỜI NÓI ĐẦU CỦA NGƯỜI BIÊN TẬP

 

Tháng hai năm1990, hơn một trăm Phật tử từ nhiều nơi trên thế giới tập trungvề học ở tu viện có tên Root Institute, một trung tâm Phật giáo trong thành cổBồ Đề Đạo Tràng, Ấn độ, nơi mà Đức Phật đã thành tựu Chánh Giác cách đây2500năm. Lớp học là một cái lều rộng trang hoàng nhiều màu sắc được dựng lêntrênnền đất của tu viện ngày xưa.

Khóa học này làmột phần hoạt động định kỳ của các khóa giảng giáo lý và lễ quán đảnh cótên “Kỷniệm sự thành tựu giác ngộ lần thứ ba” do Tổ chức Bảo tồn Truyền thống Phậtgiáo Đại thừa (viết tắt FPMT) lập ra.

Từ ngày 16 đến ngày 25 tháng hai năm 1990, LamaThubten Zopa Rinpoche (từ đây trở đi, từ “Rinpoche” chỉ cho Lama Zopa-ND),người lãnh đạo tinh thần của FPMT, đã giảng về “những giáo huấn của truyềnthống Kadampa”; khóa học có mười bài giảng dựa theo tác phẩm Khai mở Cánh cửaPháp do vị hành giả du già Tây tạng Lodro Gyaltsen trước tác vào thếkỷ15.

Rinpoche đã gâyngạc nhiên cho các đệ tử đang theo học khi tuyên bố rằng vào cuối những năm haimươi tuổi sau khi đọc tác phẩm đó, Rinpoche mới hiểu được ý nghĩa chân thật củaviệc tu tập Pháp. Họ ngạc nhiên bởi vì qua nhiều năm theo học vớiRinpoche và thông qua uy tín của ngài, các đệ tử hiện diện trong khóa học, bằngkinh nghiệm, đã biết rằng Rinpoche từng giây phút đã và đang hiến dâng cuộc đờimình cho Pháp, cho việc tu tập tâm linh; đồng thời họ cũng biết rằng Rinpochelà một tấm gương hoàn hảo của một hành giả tu tập Pháp. Như vậy rõ ràng,có mộtnhân duyên đặc biệt để được nghe khóa giảng này.

Như Rinpochethuật lại trong phần dẫn nhập, ngài sinh năm1946 trong vùng Solu Khumbu nước Nepal gần núiEverest. Theo lời kể lại của mẹ ngài, khi bắt đầu biết nói Rinpoche thường bảo:“tôi là Lawudo Lama”. Lawudo Lama có tên thật là Kunsang Yeshe đã mất năm 1945;ông nổi tiếng là một hành giả khổ hạnh và đạt giác ngộ rất cao. Trong hai mươinăm cuối đời, ông đã sống và thiền định trong một hang động ở Lawudo, vàlàngười dẫn dắt tâm linh cho dân cư địa phương. Đặc biệt ông đã phụng sự dân làngvới một năng lực vô tận và cũng như các đại hành giả du già, ông đã vượtquađược nhu cầu nghỉ ngủ.

Trên thực tế,bé trai đã được thừa nhận là vị tái sinh của Lawudo Lama. Ngawang Chopel,đệ tửchính của Lawudo Lama, theo truyền thống, đã đến tham vấn nhiều Lama caocấp ởTây tạng, tất cả đều đồng ý xác nhận vị tái sinh này. Thêm nữa, Lama ZopaRinpoche đã chỉ trúng các vật dụng cũ của Lawudo Lama đã dùng.

Trong phần dẫnnhập, Rinpoche kể cho chúng ta nghe về thời niên thiếu của ngài. Đầu tiên,Rinpoche ở tại tu viện Thami, về sau tại Rolwaling, Nepal và cuối cùng đi đếnTây tạng, ở tu viện của Doma Geshe Rinpoche xứ Pagri. Lawudo Lama là mộthànhgiả cư sĩ thuộc truyền thống Nyingma, trái lại khi Lama Zopa Rinpoche đến ở tuviện Domo Geshe, Rinpoche lần đầu tiếp xúc với truyền thống Gelug và trởthànhmột tu sĩ. Vị Hộ Pháp ở tu viện cũng xác nhận Rinpoche là một Lama tái sinh vàđã cho những chỉ giáo để nuôi dạy ngài.

Sau ba năm ởPagri, Rinpoche quyết định đi đến tu viện Sera, một trong những trường đại họcPhật giáo nổi tiếng của Gelug ở gần Lhasa để tiếp tục tu học. Tuy nhiên vị Hộ Phápbất ngờ khuyên Rinpoche đừng đi và nên ẩn tu thiền định.

Như Rinpoche kểlại, khi nghe tin người Trung Hoa sắp đến vùng Pagri, Rinpoche bỏđi đến nước Bhutan rồi sang Ấn Độ, tới Buxa Duar ở miền Tây Bengal. Rinpoche ởlại đây tám năm, tiếp tục tu học với hàng trăm Lama, các tăng, và ni sư di cưsang, sống trong một trại tập trung của người Anh lập nên trước đây.

Chính trong lúcnày, Rinpoche được Lama Thubten Yeshe thuộc Tu viện Sera, quan tâm chăm sóc vàtừ đó Rinpoche luôn luôn là đệ tử tâm huyết cho đến khi Lama Yeshe mất vào năm1984. Khi Lama Yeshe mất, Rinpoche đã nói: “Lama Yeshe đối với tôi còn hơn mộtngười cha, hơn một người mẹ”, “Lama Yeshe đã chăm sóc tôi như gà mẹ dùngmỏ mớmthức ăn cho con”.

Ròng rã suốthai mươi năm sau đó, hai vị Lama này đã có những tác động rất lớn lao đếnthế giới phương tây, thu hút hàng ngàn đệ tử nhờ vào năng lực giảng dạy cũngnhư lòng từ bi bao la; các ngài miệt mài họat động vì lợi ích người khác.

Năm1965 khiRinpoche bị đau phổi đang điều dưỡng ở Darjeeling,hai Lama đã gặp Zina Rachevsky, đệ tử đầu tiên của họ từ Mỹ đến. Là con gái mộtnhà quí tộc Ukraina trốn sang Pháp trong thời cách mạng Nga; cô Zina bắtđầunhận sự giảng dạy từ Lama Yeshe và Rinpoche với vốn liếng tiếng Anh mới học,làm thông dịch cho cô ta.Từ đó về sau, cả hai Lama đã đặc biệt dạy Pháp cho cácđệ tử phương Tây bằng tiếng Anh.

Vào năm 1968,lúc đó Zina đã xuất gia, họ cùng chuyển tới Nepal. Và chính ở Nepal sự nốikết của hai vị Lama với các đệ tử phương Tây bắt đầu phát triển mạnh. Trướctiên, họ ở Baudhanath ngay ngoài thành Kathmandu,nơi có một cái tháp Phật cổ. Theo như Rinpoche kể lại “mỗi ngày từ cửa sổ, LamaYeshe đưa mắt nhìn ra xa tới ngọn đồi phía bắc, bên kia những đám ruộng bậcthang dưới thung lũng. Ngài dường như bị ngọn đồi thu hút và vào một ngày nọchúng tôi ra khỏi nhà đi đến tận ngọn đồi đó để xem xét. Đó là đồi Kopan”.

Đồi Kopan trướckia là nơi ở của nhà chiêm tinh của Vua Nepal, và năm 1969 hai vị Lama dời đếnđó ở. Năm sau, nhận lời mời của thân quyến, Rinpoche trở về thăm Solu Khumbu vàtrong thời gian này, người con trai của Lawudo Lama trao lại cho Rinpoche hangđộng Lawudo cùng các đồ dùng trước đây của cha mình. Cũng chính trong thời giannày, Rinpoche mới hoàn thành được tâm nguyện của Lawudo Lama là lậpmột tu viện cho con em trong vùng. Rinpoche đặt tên ngôi trường là “Trungtâm Mount Everest”.

Năm 1971,Rinpoche ban bài giảng đầu tiên cho một nhóm mười hai đệ tử phương Tây –mộtbài giảng sâu sắc về thiền định và triết lý Phật giáo. Chính lần giảng dạy đầu tiênnày mà sau đó đã trở thành sự kiện mang tính thông lệ hàng năm và thu hút hàngtrăm người tham dự từ nhiều nơi trên thế giới.

Chán ngán xuhướng tôn sùng vật chất, thiếu thốn một điều gì có thể phù hợp cho nhữngkhaokhát nội tâm, những người phương Tây đã tìm đến đây và đã cảm xúc sâu xabởi nhữngphương pháp của Phật giáo Đại thừa tràn đầy lòng từ bi và minh triết, thựctiễn. Đó không phải là những ngôn từ trống rỗng mà là một truyền thống giáo lývà những thực hành thiền định sống động, một dòng truyền thừa từ thầy sang tròkhông gián đoạn, xuất phát từ Đức Phật truyền cho tới ngày nay. Các phương phápđó có hiệu quả rõ rệt, lấy bằng chứng cụ thể từ việc sống cùng với các Lama,lắng nghe họ giảng, cũng như làm theo những lời chỉ dạy dành riêng cho mình hayđể ý tới những hành động của các Lama khi ở cùng người khác. Đây là những phươngpháp thể hiện rất sống động về sự nhẫn nại, ưu ái, hài hước, uyên bác, hoan hỉ,tràn đầy lòng thương yêu.

Đáp lại yêu cầucủa các đệ tử phương Tây mỗi lúc một nhiều, các Lama đã đi phương Tây lần đầuvào năm 1974. Họ đến nước Mỹ, Úc, New Zealand và chặng dừng chân đầu tiên là ở New York. Rinpoche nói:“Chuyến đi không gây ngạc nhiên cho tôi lắm vì tôi đã không thấy lạ đối vớinhững nơi ấy nhờ vào việc học tiếng Anh từ tạp chí Times, và gặp nhiều ngườiphương Tây trẻ có, già có, nghe họ nói về kinh nghiệm sống của họ ở đó”.

Sau các chuyếnđi của hai Lama, các đệ tử ở nhiều quốc gia bắt đầu thành lập các trung tâmgiảng Pháp và Thiền định, và vào năm 1975 khi mạng lưới các trung tâm này đủlớn mạnh, Lama Yeshe quyết định đặt tên cho hệ thống này là Tổ chức Bảo tồnTruyền thống Phật giáo Đại thừa (viết tắt FPMT). Kopan là đầu mối của tổchứcnày. Mỗi năm Rinpoche mở lớp giảng được gọi là “Khóa giảng tháng mười một”. Số lượngtrung tâm tăng không ngừng, và hàng năm các Lama từ Kopan đi đến cáctrung tâm trên thế giới, đáp ứng những lời mời thỉnh giảng dạy càng lúc càngtăng.

Giờ đây “Trungtâm Mount Everest” đã dời từ núi xuống thung lũng Kathmandu ở Kopan, cơ sở nàytiếp tục mở rộng thêm để phục vụ việc tu tập cho người Sherpas, Manangpas,Tsumpas và cho nhiều người khác nữa ở Nepal cũng như cho những người Tâytạng.

Năm 1973 ZinaRachevsky bị bệnh và chết giữa lúc đang ẩn tu thiền định. Theo như Rinpochenói, có những dấu hiệu lúc Zina mất cho thấy ni sư đã thành tựu những chứng ngộ tâm linh.

Một năm sau,khi về thăm lại hang động Lawudo, Rinpoche bắt gặp cuốn sách giáo lý mà nó đượclàm nền tảng cho tác phẩm này. Cuốn sách đó đã khiến Rinpoche nói rằng chỉ saukhi đọc nó, Rinpoche mới tìm ra được “phương cách tu tập Pháp”.

Nội dung cuốnsách như thế nào mà khiến Rinpoche, một hành giảvĩ đại, đã nói như vậy? NhưRinpoche có giải thích, Khai mở Cánh cửa Pháp (tên cuốn sách-ND) là “thực hànhđầu tiên bạn phải áp dụng nếu bạn muốn tu tập Pháp”.

Như Rinpochexác định ngay từ đầu và cũng như trong suốt tác phẩm này, điểm chủ yếu là: mộtthực hành được coi là tu tập tâm linh hay không, không phải được xác định bằng hìnhthức tu tập như Thiền định, cầu nguyện hay tụng kinh, trì chú mà phảiđược xác định bằng động cơ (tâm nguyện) muốn tu tập. Rinpoche chỉ rõ cáigọi làhoạt động tâm linh có thể không phải là hành động tu tập Pháp, nói cách khác,nó không đem tới một quả vịû thiện hạnh nếu nó được thúc đẩy bởi ham muốn, gắnvới những thành đạt tầm thường của đời sống thế tục này.

Ngược lại ngaycả cái gọi là một hoạt động thế tục có thể sẽ là sự tu tập Pháp nếu nó đượcthúc đẩy bởi một động cơ vì mục tiêu lớn rộng hơn, lâu dài hơn.

Theo quan điểmcủa Phật giáo Đại thừa, động cơ của một hành động được coi lớn nhất là ước muốnthành tựu giác ngộ để dẫn dắt người khác đạt tới trí tuệ và đại bi tối thượng.Tiêu điểm này là độc nhất vô nhị của Đại thừa, con đường của các Bồ Tát –cácvị có được tâm giác ngộ, bồ đề tâm không cần dụng công (mặc nhiên tự phát) ;nói cách khác, một động cơ Đại thừa tự nhiên và liên tục tự phát. Lamrim–đường đạo từng bước đưa tới giác ngộ – đã vạch rõ những phương pháp khácnhauđể thành tựu bồ đề tâm. Giáo lý này bao gồm những phép tu từng bước, rúttừ cáclời dạy của Đức Phật, lần đầu tiên được Lama Atisha vĩ đại giảng dạy ở Tây tạngvào thế kỷ mười một.

Một phương pháprất hữu hiệu khác nữa để phát triển bồ đề tâm là làm theo một loạt các lời dạyvà thiền định, được gọi là chuyển hóa suy nghĩ hay luyện tâm (tiếng Tạng: lo-jong).Phương pháp này đặc biệt nhấn mạnh sự tu tập trao đổi mình với người, nói cáchkhác, yêu thương chăm sóc người khác thay vì nuông chiều bản thân mình.

Nói chung, hànhgiả học sử dụng từng giây phút của cuộc sống – dù đang được sung sướng hay bấthạnh – để phá hủy chướng ngại lớn nhất của bồ đề tâm, đó là thói quen chỉ biếtcó mình, chỉ biết lo cho mình.

Trong tác phẩmGiải thoát trong Lòng Bàn tay, Pabongka Dechen Nyingpo giải thích rằng:

Phép chuyểnhóa suy nghĩ (lo-jong) có thể xua tan bóng tối của vị kỷ (nuông chiều mình –ND), giống như một tia sáng có thể xua tan đêm đen. Nó có thể trừ khử căn bệnhvị kỷ giống như thảo dược có thể trị lành bệnh tật. Trong thời đại ngàynay khi năm thứ suy đồi đang rất phổ biến và các phép tu khác không hiệuquả thì phép luyện tâm này (lo jong) sẽ giúp được cho bạn và bạn sẽ không bịcác nghịch cảnh gây trở ngại. Phép tu này có tác dụng rất to lớn.(trang 588-589)

Phép luyện tâmnày được dạy đầu tiên vào thế kỷ thứ tám bởi Shantideva, vị đạo sư Đại thừa ởẤn Độ; ngài khuyên các hành giả du già thực hành phép tu tập này một cách bí mậtbởi vì, như Pabongka Dechen Nyingpo nói, chúng không “làm hài lòng một bình chứakhông thích hợp”.

Chính Đại sưAtisha đã đem giáo lý này đến Tây tạng và bí mật trao truyền cho Dromtonpa, đệtử ruột của ngài. Và từ đó bắt đầu giòng truyền thừa Kadampa vĩ đại gồm các vị dugià nổi tiếng trong phép tu tập chuyển hóa suy nghĩ (lo-jong). Và ngày nay cácdu già Đại thừa áp dụng phép tu tập này trong các khóa thiền chính.

Luận giảng Khaimở Cánh cửa Pháp thuộc truyền thống Kadampa này. Cuốn sách chủ yếu nhấnmạnh đến nhược điểm của sự ham muốn, đến vô thường và cái chết. Những điều này là“những thực hành đầu tiên nếu bạn muốn tu tập Pháp”, bởi vì, thực tế mà nói,một khi thấy được rằng liền sau ham muốn có nhân của đau khổ, bạn mới có khảnăng tu tập và cuối cùng bạn mới có thể hoán đổi mình với người khác để pháttriển bồ đề tâm.

Với cuốn sách“Cánh cửa Mãn nguyện” này, Lama Zopa Rinpoche đã sử dụng những lý lẽ mạnh mẽ,xác thực, nêu ra cho người đọc thấy rằng, bằng việc thực hành những phương phápnày và bằng sự nhận biết không có cái tôi để nuông chiều, chúng ta có thể pháthiện được sự mãn nguyện và sự hạnh phúc của mình ỏ mức sâu sắc nhất, tứclà sựgiác ngộ, và từ đó chúng ta có thể dẫn dắt người khác đạt tới trạng tháigiácngộ viên mãn.

Đây làlời khuyên tâm huyết, cốt lõi trong những bài giảng của Rinpoche từ khi ngàiban cho khóa thiền định đầu tiên năm 1971. Rinpoche là một Kadampa trongthờihiện đại. Ngài là một tấm gương điển hình hoàn hảo về những lời giảng màngàiđã dạy và ngài đã không ngừng yêu thương chăm sóc người khác hơn là bản thânmình.

Từ khi ngườithầy kính yêu của ngài là Lama Yeshe qua đời vào năm 1984, Lama Zopa Rinpochelà vị Lãnh đạo Tinh thần duy nhất của FPMT. Tổ chức này tiếp tục phát triển ởnhiều nước, có hơn bảy mươi trung tâm thiền định, nhập thất, chữa bệnh cũng nhưnhững tu viện, nhà xuất bản và các hoạt động khác nữa trên mười bảy quốcgia.

Kopan đang pháttriển mạnh. Trung tâm Mount Everest giờ đây lànhà của hơn 250 tăng ni đang theo học giáo lý Phật theo cách thức tu việntruyền thống.

Rinpoche khôngngừng đi nhiều nơi trong thế giới (mandala) của Ngài, giảng dạy và dẫn dắt hàngngàn đệ tử. Đặc biệt nhất trong số các đệ tử mà Rinpoche đang dẫn dắt cóLamaTenzin Osel Rinpoche, sinh năm 1985 ở Tây Ban Nha, được đức H.H.Dalai Lamachính thức thừa nhận là vị tái sinh của Lama Thubten Yeshe. Giờ đây đến lượtLama Zopa là “còn hơn một người cha, hơn một người mẹ”. Rinpoche chăm lodạy dỗvị Lama trẻ này từng giây từng phút, chuẩn bị cho Lama trẻ này có thể đảm đươngmột khối lượng rất lớn các hoạt động Phật Pháp với tư cách là Lama Yeshe.

Chúng tôi chânthành biết ơn Merry Colony, Alfred Leyens, Connie Miller, Paula Chichester vàRoger Munro đã đóng góp cho cuốn sách này được xuất bản. Xin cầu nguyện chonhững ai đọc Cánh cửa Mãn nguyện nhanh chóng nhận ra tiềm năng tự tại, đạt tới hạnhphúc tối thượng.

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
24/07/2013(Xem: 15580)
Các văn cú Thượng Đường của 13 Thiền Sư đã Đắc Đạo như : *Ngột Am Phổ Ninh Thiền sư-Đời Nam Tống. *Hoành Xuyên Như Củng Thiền sư-Đời Nhà Nguyên. *Cao Phong Nguyên Diệu Thiền sư-Đời Nhà Nguyên. *Nguyên Sưu Hành Đoan Thiền sư-Đời Nhà Nguyên. *Đại Phương Hành Hải Thiền sư-Đời Nhà Thanh. *Thiết Bích Huệ Cơ Thiền sư-Đời Nhà Thanh. *Thiên Nhiên Hàm Thị Thiền sư-Đời Nhà Thanh. *Đại Hưu Tịnh Châu Thiền sư-Đời Nhà Thanh. *Tri Không Học Uẩn Thiền sư-Đời Nhà Thanh. *Tam Sơn Đăng Lai Thiền sư-Đời Nhà Thanh. * Cổ Lâm Trí Thiền sư-Đời Nhà Thanh. * Lữ Nham Hà Thiền sư-Đời Nhà Thanh. * Thuần Bị Quảng Đức Thiền sư-Đời Nhà Thanh. Sư Cô thỉnh Tôi duyệt văn, đọc qua bản dịch của Sư Cô và đối chiếu với Hán bản Thiền Lâm Châu Ki. Tôi phải nhìn nhận là nghiêm chỉnh và đã giữ trọn văn phong ẩn bí của Thiền Gia, lối nói thẩm sâu kỳ bí của các Tổ Thiền như đâm thủng núi thiết vi, như sợi tóc chẻ đôi thế giới! Có khi bảng lãng như xóa sạch cả hư không! Có lúc như vo tròn một quả hành tinh rút nhỏ
21/07/2013(Xem: 6618)
Kế con kênh nước đen cạn gần đáy, mùi xú uế bốc lên từng cơn theo luồng gió, bệnh nhân Lê Hoàng Dũng nằm bất động trong căn phòng bề ngang hơn một mét, dài độ hai mét, phía sau chợ Xóm Củi quận 8. Nhóm khiếm thị làm từ thiện (được gọi là nhóm thiện nguyện khiếm thị Hốc Môn), đến thăm và hỗ trợ tịnh tài tịnh vật cho bệnh nhân. Anh Lê Hoàng Dũng sinh năm 1960, vốn là người khiếm thị bẩm sinh, người vợ chân có tật, hai người đều bán vé số để chăm lo gia đình và trả tiền nhà thuê; chẳng may, tháng 6 năm 2011, nạn nhân bị tai biến, không đi lại được, nghe và nói cũng bị ảnh hưởng nặng nên trở thành chiếc thân bất động. Cô em gái chồng chạy xe ôm, phải đem ông anh bệnh tật nầy về nuôi để vợ nạn nhân tiếp tục lây lất sống nơi khác.
21/07/2013(Xem: 15335)
Cà Sa Vương khói của Tịnh Minh
18/07/2013(Xem: 11829)
Trong Kinh A Hàm có ghi nhận rằng vào mùa An Cư thứ 7 (năm 583 trước TL) Đức Phật Thích Ca vận thần thông đến cung trời Đao Lợi để giảng pháp độ mẫu thân, chính vì thế mà Đức Phật đã vắng mặt tại Ấn Độ ba tháng, không gặp được Phật trong một thời gian dài như thế, nên Vua Ưu Điền (Udayana) trị vì kinh đô Kosambi, thương nhớ buồn khổ mà sinh bệnh. Các quan đại thần triệu tập các điêu khắc gia lừng danh đương thời, dùng gỗ chiên đàn ở núi Ngưu-đầu khắc một pho tượng thật giống như Phật, cao năm thước, dâng lên đức vua. Vua nhìn thấy pho tượng Phật, tưởng như gặp lại Phật, liền đảnh lễ chiêm bái, lập tức đức vua liền khỏi bệnh.
12/07/2013(Xem: 6939)
Mưa từ đêm qua. Mưa rả rich khi tôi bắt đầu ngồi thiền, và quá nửa đêm thì ầm ầm thác đổ! Cả không gian mênh mông chìm trong mưa. Mưa đang là chúa tể, đang khiến mọi loài khuất phục, nhưng nếu tách rời ra, mưa chỉ là từng hạt lệ trời, và lệ trời rơi xuống, biết đâu chẳng khiến lệ người nở hoa!
12/07/2013(Xem: 7327)
Tôi thức giấc vì tiếng sấm, và rồi dăm tia chớp lóe sáng bên khung cửa sổ.Đồng hồ chỉ 4 giờ 30 sáng. Tôi ngồi dậy, nhìn mưa qua khung cửa kính. Chẳng thấy gì nhiều ngoài mầu xanh thẫm của rừng thông đang thỏa thuê đùa giỡn cùng mưa. Cả hai, dường như đang vui vẻ lắm! Mưa tuôn sối sả, thỉnh thoảng gầm gừ, lóe chớp như để rừng cây ngả nghiêng rượt tìm, tựa trò chơi cút bắt.
11/07/2013(Xem: 9013)
Cơm Hương Tích, cũng giống như Trăng Lăng Già, Thuyền Bát Nhã, Trà Tào Khê,… là những thuật ngữ trong cửa chùa mà ai ai cũng đã hơn một lần nghe qua. Vậy Cơm Hương Tích là loại cơm như thế nào ?
03/07/2013(Xem: 10264)
Đó là lời khuyên để người trẻ suy nghĩ và tìm cho mình một cách để sống là sống vui, sống khỏe chứ không phải là lây lất, sống chỉ dưới dạng thức sinh học còn tâm hồn thì đau đớn, hay “chết ngắt” vì sống mà không có ích, thậm chí làm hại mình, hại người…
01/07/2013(Xem: 5473)
Những ngày qua, ngày và đêm chạy theo cơn nóng. Nhìn đâu cũng thấy hơi nóng, bốc hơi từ con đường, sân cỏ, đất, cây cối, chạy đến trong nhà, nóng vẫn đuổi theo và làm như nũng nịu để có mặt khắp mọi nơi chốn ...
29/06/2013(Xem: 12635)
Căn nghiệp của con người kỳ 02 , Lê Sỹ Minh Tùng, do Trọng Nghĩa Mộng Lan diễn đọc
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]