Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

12. Phát huy tâm thức giác ngộ

05/01/201116:53(Xem: 10812)
12. Phát huy tâm thức giác ngộ

Đức Đạt Lai Lạt Ma
TU TU
Bản tiếng Anh:Practicing Wisdom - Nhàxuất bản Wisdom
Bản tiếng Pháp: Pratique de laSagesse - Nhà xuất bản Presses du Châtelet
Bản dịch Việt ngữ: Hoang Phong - Nhà xuất bản Phương Đông TP. Hồ Chí Minh 2008

12
Phát huy tâm thức giácngộ

Yêu thương kẻ khác làmột sự lợi ích

Tịch Thiên xácnhận rằng hạnh phúc và hân hoan thoát ra từ ý chí của ta mong muốn đem đến sựtốt đẹp cho tất cả những sinh linh có giác cảm khác, trong khi đó, những khókhăn, những thảm trạng và tai họa là hậu quả của sự kiện ta chỉ biết lo nghĩđến chính ta.Tịch Thiên tự hỏi tại sao ta lại phải đề cập đến việc ấy : chỉ cầnnhìn vào những phẩm tính của Phật, Ngài ước mong đem đến những gì tốt đẹp chotất cả chúng sinh và số phận của chúng ta, tức thể dạng thường ngày mà chúng tađang gánh chịu ? Chúng ta sẽ dẽ dàng nhận thấy luận cứ ấy là đúng khi so sánhgiữa thử thách của những con người bình thường với những đức tính giác²ngộ vàtrí tuệ của chư Phật, điều ấy còn giúp ta so sánh giữa những xứng đáng và lợiích về lòng ước vọng thiết tha đem đến sự tốt lành cho những chúng sinh có giáccảm và những tệ hại và bất lợi của thái độ ích kỷ, chỉ biết hướng về sự tốtlành của chính ta.

Tịch Thiên tự hỏi tạisao trong khi mà tất cả chúng sinh, cũng như chính ta, đều có cùng một ước vọngđạt được hạnh phúc và loại trừ khổ đau, ta lại chỉ biết tìm cách phục vụ choquyền lợi của chính ta, làm tổn hại đến quyền lợi của kẻ khác – đến độ khôngcòn biết nghĩ gì đến kẻ khác ? Câu hỏi này nêu lên một sự thật lớn lao.Cũnggiống như chính ta, tất cả những chúng sinh khác đều mong mỏi được hạnh phúc vàloại trừ khổ đau ; mỗi người trong chúng ta đều hiểu rằng tiếp theo sau nhữngcảm nhận về hân hoan và hạnh phúc là những gì bất toại nguyện sẽ xảy ra. Cũngnhư chính tôi đây, với tư cách là một cá nhân, nếu đương nhiên tôi có quyềnthực hiện ước vọng đạt được hạnh phúc và loại trừ khổ đau, thì tất cả nhữngchúng sinh khác cũng có cái quyền ấy. Công nhận sự công bằng cơ bản nàytrên đâylà một điều thật hết sức quan trọng.

Vậy sự khác biệt giữanhững kẻ khác và ta là gì ? Dù rằng tất cả kẻ khác thật vô cùng quan trọng vàquý giá, nhưng ta chỉ biết nghĩ đến quyền lợi riêng cho một người. Mặc chosự đau đớn của kẻ khác có dữ dội đến đâu đi nữa, ta chỉ quan tâm đến sựsự an vui của chính ta mà thôi. Thế mà, mỗi khi nói đến sự an vui của nhữngsinh linh có giác cảm khác, ta có hiểu được chăng chữ khác chỉ định vô số chúngsinh. Dù cho sự đớn đau của môt chúng sinh khác đối với ta quá nhỏ nhoi đi nữa,nhưng những đớn đau của những chúng sinh khác khi cộng lại thì thật là vô biên.Vì thế, theo quan điểm dựa trên lượng chất, sự an vui của kẻ khác trở nênquan trọng hơn sự an vui của riêng ta rất nhiều.

Mặc dù ta chỉ nghĩ đến quyềnlợi của chính ta, nhưng khi những kẻ khác được hài lòng và hạnh phúc, ta cũngđược hửng lây. Trái lại, nếu những kẻ khác luôn luôn đang btrong tình trạng đớnđau triền miên, chính ta cũng sẽ rơi vào một số phận như thế. Thật hết sức rõràng quyền lợi của kẻ khác liên hệ chặt chẻ với quyền lợi của chính ta. Hơnnữa, ta đã thấy rõ qua kinh nghiệm cá nhân của ta, nếu ta càng bám níu vào «cái tôi » – tức càng chăm lo quyền lợi của riêng ta – thì những vấn đềtâm lý và xúc cảm của ta lại càng trở nên trầm trọng hơn.

Nhất định, quan tâm đếnchính ta là một điều hết sức quan trọng. Nhưng muốn thực hiện điều đó phảỉ biếtchọn môột thái độ thực tế hơn, có nghĩa là không nên xem quyền lợi của ta quantrọng quá đáng và hãy nghĩ đến sự an vui của kẻ khác nhiều hơn. Hãy tỏ rathương người nhiều hơn và quan tâm đến sự an vui của kẻ khác thực ra làthái độ rất lành mạnh dù chỉ để thỏa mãn quyền lợi của riêng ta. Khi ta biếthành động như thế, ta sẽ nhận ra một sự thay đổi quan trọng trong ta, đó là mộtthứ cảm tính an bình. Ta sẽ không hành động một cách ngược ngạo xem những việcnhỏ mọn trở thành to lớn giống như cả sinh mạng ta liên hệ vào đấy, và cả danhthơm của ta, cả cá tính của ta và cả kiếp sống của ta cũng bị hăm dọa. Nếu tachỉ biết thường xuyên nghĩ đến quyền lợi của riêng ta – và hoàn toàn quên đi sựan vui cũa kẻ khác – thì một biến cố nhỏ nhoi nhất cũng có thể gây cho ta nhữngbấn loạn mãnh liệt hay những vết thương trong nội tâm của ta. Kinh nghiệm cánhân chứng minh cho ta những điều đó.

Tóm lại, thái độ thươngngười đó thật lợi ích vừa cho kẻ khác lại vừa cho ta nữa. Đặt tâm thức ta dướisự nô lệ của ích kỷ sẽ kéo dài vô tận những cảm tính bất toại nguyện, thiếuthốn và bất hạnh mang tính cách nhất thời hay lâu dài. Ta phung phí cơ duyêntuyệt vời mà ta đang có – tức cơ duyên được làm thân con người, được thừa hưởngnhững khả năng tuyệt mỹ, như trí thông minh có thể giúp ta đặt được những mụctiêu cao cả nhất. Vì vậy thật hết sức quan trọng phải biết ước lượng những hậuquả do những hành vi của ta gây ra trong nhất thời và trong lâu dài. Có phươngcách nào hơn để đem đến cho cuộc sống làm người của ta một ý nghĩa, nếu khôngphải đó là phương cách suy tư về bồ-đề tâm, tức ước vọng thương người mong đạtcho được giác ngộ vì sư an vui của tất cả những sinh linh có giác cảm ?

Làm phát sinh tâm thứcgiác ngộ

Về phần riêng tôi,tôi không dám nghĩ rằng đã đạt được tâm thức giác ngộ – hay Bồ-đề tâm – dù tôihết sức mến phục những điều đó, nhưng tôi cảm thấy cảm tính mến phục ấy đã đemđến sự phong phú cho tôi và nguồn can đảm cho tôi, và đó cũng là nền móng xâydựng hạnh phúc của tôi ; chính nhờ nó, tôi mới đủ khả năng giúp kẻ khác đượchạnh phúc, và tôi đã cảm nhận được sự hài lòng và hoan hỉ. Tôi hoàn toàn hysinh cho lý tưởng thương người đó và tôi sẽ luôn luôn trung thành với lý tưởngđó – dù cho tôi ốm đau hay khoẻ mạnh, trong suốt tuổi già của tôi haytrong khi chết – và đối với nó, tôi tin chắc rằng tôi sẽ luôn luôn giữ đượclòng mến phục sâu xa. Hỡi các bạn hữu của tôi, tôi mong muốn xin các bạn hãytập làm quen nhiều chừng nào hay chừng ấy với Bồ-đề tâm. Nếu có thể được, cácbạn hãy dốc hết nổ lực để làm phát sinh trong lòng các bạn thái độ thương ngườivà lòng từ bi.

1-10- Tư duy ấy đã biếnthân xác ô uế này thành một hình ảnh vàng ngọc và vô giá : ấy là Phật. Hãy nắmthật chặt vị thuốc mầu nhiệm này, tên gọi của vị thuốc là Tư duy của Giác ngộ !

Khi ta suy tư hờihợt về Bồ-đề tâm, ta thấy nó tương đối khá đơn giản ; nó tỏ ra không đến đỗiquá hấp dẫn như thế. Các cách thiền định tan-tra xem nó như cơ bản củamạn-đà-la (môt khái niệm quan trông của Phật giáo Tây tạng, dưới hình thức mộttranh vẽ, tượng trưng cho vũ trụ và những sức mạnh của vũ trụ giúp cho việcthiền định) và của các thần linh, điều này có thể tỏ ra vô cùng huyền bí chota, và cũng vì thế nên nó cũng trở nên hấp dẫn hơn. Tuy nhiên, khi ta bước vàotu tập, Bồ-đề tâm sẽ trở thành vô tận. Với nó ta sẽ không gặp bất cứ một bấtngờ nào làm cho ta vỡ mộng hay thối chí, trong khi đó những cách thiền định dựavào thần linh, tụng kinh man-tra, cũng như các cách tu tập khác, đôi khi đưađến thất vọng, bởi vì ta đặt vào đó những tham vọng quá lớn. Sau nhiều năm tutập, ta có thể thốt lên : « Mặc dù tôi đã có tu tập thiền định dựa vào một thầnlinh và tôi cũng có tụng tất cả các kinh sách man-tra, nhưng tôi chẳng thấy mộttiến bộ nào cả ; tôi chẳng cảm nhận được một kinh nghiệm thần bí nào cả » Tutập về Bồ-đề tâm không đưa đến sự thất vọng đại loại như kiểu đó. Việc tu tậpBồ-đề tâm đòi hỏi một thời gian lâu dài, thật hết sức quan trọng khi ta bắt đầuđạt được một chút kinh nghiệm, hãy bộc lộ sự quyết tâm đó bằng những lời nguyệncầu dưới sự chứng kiến của một vị đạo sư hay trước một vị đại diện cho Phật.Hành vi này sẽ làm gia tăng thêm sức mạnh về Bồ-đề tạm của ta. Tu tập về Bồ-đềtâm là một nghi lễ đặc biệt, trong dịp này và trước mặt một vị thầy, ta phátnguyện cầu xin đạt được giác ngộ vì an vui của tất cả chúng sinh.

Phần đầu trong nghi lễnày là sự phát hiện ước vọng về Bồ-đề tâm. Làm phát sinh ước vọng thươngngười để đạt được Bồ-đề tâm vì sự an vui của tất cả chúng sinh tức là ta tự camkết không từ bỏ và không làm suy thoái lòng nhiệt tâm đó, không những trongkiếp sống này, mà trong cả những kiếp sống về sau nữa. Muốn thực hiện lời camkết đó phải noi theo một số giới luật. Phần thứ hai của nghi lễ là phát nguyệncủa người Bồ-tát ; người phát nguyện phải thực hiện xong phần thứ nhất của nghilễ.

Sau khi đã phát nguyện,dù muốn hay không, dù đièu ấy có đem đến thích thú hay không, ta phải xem nhữnglời phát nguyện ấy quý giá hơn mạng sống của chính ta. Sự quyết tâm giữvững những lời phát nguyện đó phải vững chắc như một quả núi ; ta hứa từ giờphút này phải noi theo những giới luật của người Bồ-tát và chọn một cuộc sốngphù hợp với sự tu tập giúp đạt đến giác ngộ.

Nhất định một số nhữngngười đọc quyển sách này không phải là những người tu tập Phật giáo. Một sốnhững người Phật giáo có thể cũng cảm thấy không mong muốn phát nguyện Bồ-đềtâm, và đặc biệt bước vào phần thứ hai của nghi lễ. Nếu ta cảm thấy thiếu khảnăng tuân theo giới luật của người Bồ-tát, ta không nên phát nguyên ; nhưngđiều này cũng không cấm cản ta làm nảy sinh lòng thương người trong ta, và cầuxin hạnh phúc sẽ đến với tất cả những sinh linh có giác cảm, để ta có đủ khảnăng đạt được giác ngộ toàn vẹn vì an vui của kể khác. Làm được như thế cũng đủ: ta sẽ rút tỉa được những điều xứng đáng qua hành vi phát lộ Bồ-đề tâm, nhưngkhông cần phải tuân theo giới luật. Nếu không phát nguyện, ta chỉ phát huy đượclòng ước vọng về Bồ-đề tâm mà thôi. Tùy vào sự phán đoán của quý vị về việcnày.

Khích lệ bởi lòng ướcmong giải thoát cho mọi chúng sinh
Tôi xin nhất quyết
Quy y Phật, quy y Pháp,quy y Tăng,
Cho đến khi nào đạt đượcgiác ngộ toàn vẹn.

Thúc đẩy bởi trí tuệ vàlòng từ bi,
Hôm nay đây trước mặtPhật,
Tôi xin được phát khởitâm thức Giác ngộ,
Vì sự an vui của tất cảchúng sinh.

Khi nào không gian còn tiếptục,
Khi nào chúng sinh còn hiệnhữu,
Tôi van xin vẫn còn đây
Để làm tan biến tất cả khổđau của thế giới này.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
08/08/2020(Xem: 5644)
Hôm nay là ngày 4 tháng 6 năm 2002 nhằm ngày 24 tháng 4 năm Nhâm Ngọ, tôi bắt đầu viết tác phẩm thứ 34 của mình với nhan đề là: “Cảm Tạ Xứ Đức”. Trong mùa an cư kiết hạ này tôi cố gắng hoàn thành tác phẩm để sau đó còn cho dịch ra tiếng Đức, nhằm cho người Đức cũng có thể xem và hiểu nhiều hơn về một dân tộc ở rất xa hơn nửa vòng trái đất, nhưng tại quê hương này đã cưu mang họ hơn 25 năm nay trong bàn tay từ ái đón nhận những người tỵ nạn Cộng Sản Việt Nam đến tạm dung, sinh sống tại xứ Đức này.
08/08/2020(Xem: 6922)
Trong Kinh Pháp Cú có một số bài khá phong phú đề cao chánh pháp vì chánh pháp đóng một vai trò rất quan trọng trong trách nhiệm phát huy chánh kiến, tu tập trí tuệ, đưa người hành giả dần đến mục đích giác ngộ và giải thoát. Chánh pháp cũng giữ một vai trò rất quan trọng trong trách nhiệm hướng dẫn quần sinh. Chúng ta nhớ lại lời căn dặn của Đức Phật trong kinh Đại Bát Niết Bàn: “Này A Nan, hãy tự mình là ngọn đèn cho chính mình, hãy tự mình y tựa chính mình, chớ y tựa người khác. Dùng chánh pháp làm ngọn đèn, dùng chánh pháp làm chỗ tựa.”
05/08/2020(Xem: 7365)
Một hôm Ngài A Nan hỏi Đức Phật ? Bạch Đức Thế Tôn, sau khi một chúng sanh qua đời họ sẽ tái sanh về đâu? Đức Phật ôn tồn trả lời; Này A Nan, cũng như một cái cây, nếu nghiêng về phía nào, thì khi người ta đốn ngã nó sẽ đỗ về phía đó (trọng lực), một chúng sanh sau khi chết cũng sẽ theo nghiệp mà đi như thế ấy.
05/08/2020(Xem: 6436)
Đại dịch coronavirus bùng phát lần nữa tại Việt Nam, Hoa Kỳ và hầu hết các nước trên thế giới. Tính tới tuần lễ đầu tháng 8/2020, thế giới có gần 700,000 người chết vì đại dịch, trong đó Việt Nam có ít nhất 6 người chết. Vụ Thống kê Dân số và Lao động cho biết VN có hàng chục triệu người mất việc, giảm giờ làm, giảm thu nhập… Kinh tế suy sụp mọi mặt, đặc biệt thê thảm là các ngành du lịch, khách sạn, tiệm ăn, chợ búa, giao thông. Toàn dân đều bị ảnh hưởng --- kể cả tăng ni trong và ngoài nước, khi các khóa tu và khóa lễ hủy bỏ vì giãn cách xã hội, Phật tử không thể tới chùa được. Trong hoàn cảnh này, hạnh nguyện hộ trì và bố thí cần được thực hiện theo lời Đức Phật dạy để bảo vệ sáu phương: Bố thí tài vật (giúp dân vượt khó, cúng dường chư tăng, ba mẹ, thầy cô giáo…), bố thí sinh mạng (liều thân vào nơi hiểm nạn để cứu người, như lính cứu hỏa thời bình, như nhân viên y tế thời đại dịch vì chăm sóc bệnh nhân cũng là chăm sóc Đức Phật), và rồi tận cùng của hạnh bố thí là giải thoát.
04/08/2020(Xem: 6298)
“Khi tôi thức dậy vào mỗi buổi sáng, bị giằng xé giữa mong muốn cứu thế giới và thiên hướng thưởng thức nó” - E.B. White Đời sống tâm linh ban đầu có thể tập trung vào sự tự diễn biến, nhưng khi chánh niệm và từ bi tâm phát triển, chúng ta tự nhiên trở nên chú ý đến các giá trị của xã hội chung quanh chúng ta. Khi chúng ta thực hành như vậy, chúng ta có thể thấy lời nguyện phổ biến về hạnh phúc thông qua sự tham lam và chủ nghĩa tiêu dùng xa xỉ dư thừa ngày càng nông cạn và sai lầm. Trái tim của tôi trở nên thông minh hơn và hài lòng hơn.
03/08/2020(Xem: 5810)
Giáo sư Lewis Lancaster sinh ngày 27 tháng 10 năm 1932, Giáo sư danh dự của Khoa Ngôn ngữ và Văn hóa Đông Á (East Asian Languages and Cultures) tại Đại học California, Berkeley, Hoa Kỳ, đã từng là Chủ tịch, Giáo sư phụ trợ, Chủ tịch Hội đồng xét Luận án (Chair of the Dissertation Committee) của đại học University of The West (California) từ năm 1992. Ông còn là Giáo sư Danh dự của khoa Ngôn ngữ Đông Á (East Asian Languages), Khoa trưởng Khoa Phật học (Buddhist Studies) thuộc đại học UC Berkeley; và đã từng giữ chức vụ Viện trưởng (2004-2006).
02/08/2020(Xem: 6152)
Trong khoảng chục ngày nay, các báo Việt Nam đưa tin toàn chuyện dịch bệnh CoViD-19 , vì nó đang đe dọa trở lại sau một thời gian 3 tháng tạm thời im ắng. Ngay lúc này, giở ra đọc lại sách Chớ quên mình là nước - Tạp văn, khảo luận về nước và môi trường của Văn Công Tuấn mà tôi đã được tác giả gởi tặng từ một tháng trước, ý thức về tầm quan trọng đối với môi trường sống của tôi càng trở nên đậm nét.
02/08/2020(Xem: 8263)
Đức Phật xuất hiện trên thế gian này vì một mục đích duy nhất làm cho tất cả chúng sanh được giác ngộ, thoát khỏi khổ đau được an lạc giải thoát. Vì thế, trong kinh nói: “Như Lai thị hiện nơi cuộc đời này, là để xua tan bóng tối vô minh và chỉ cho nhân loại con đường đi đến sự đoạn tận của khổ đau”.
01/08/2020(Xem: 5979)
Cư sĩ Sandy Huntington sinh ngày 24 tháng 2 năm 1949, ông sinh ra và trưởng thành tại East Lansing, Michigan, một thành phố thuộc quận quận trong tiểu bang Michigan, Hoa Kỳ và học đại tại bang Michigan. Sau khi tốt nghiệp đại học, ông đi du lịch đến Na Uy, học tiếng Na Uy và bắt đầu say mê học ngôn ngữ và văn học suốt đời.
01/08/2020(Xem: 4985)
Nói và nghe là hai yếu tố quan trọng trong đời sống con người.Từ thời cổ xưa con người sống trong hang đá rừng rậm chưa có chữ viết chưa có lời nói, nên con người phát biểu tình cảm hay ý muốn bằng âm thanhgầm gừ,ậm ừ … từ trong cổ họng, hoặcbiểu lộ bản năng cảm xúc bằngánh mắt hay cử chỉ quơ tay động chân.Đời sống của con người lúc ấy không mấy khác với đời sống của thú rừng hoang dã.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]