Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Lời tựa Của Ngài Thupten Jinpa

05/01/201116:39(Xem: 10955)
Lời tựa Của Ngài Thupten Jinpa

Đức Đạt Lai Lạt Ma
TU TUỆ
Bản tiếng Anh: Practicing Wisdom - Nhà xuất bản Wisdom
Bản tiếng Pháp: Pratique de la Sagesse - Nhà xuất bản Presses du Châtelet
Bản dịch Việt ngữ: Hoang Phong - Nhà xuất bản Phương Đông TP. Hồ Chí Minh 2008

Lờitựa
(CủaNgài Thupten Jinpa (1))

Hànhtrình đến Giác ngộ (2) là một tập Luận của Tịch Thiên(Shantideva), được Đức Đạt-Lai Lạt-ma bình giảng. TậpLuận nêu lên một điều tiên quyết: tất cả những lờiPhật dạy đều nhắm vào mục đích khuyến khích ta trau dồiTrí tuệ. Điều khẳng định này tuy có vẽ đơn giản nhưngthật ra đã phản ảnh một sự hiểu biết thâm sâu, và cũnglà trọng tâm của thông điệp Phật giáo. Tuy rằng một vàimôn đệ của Đức Phật sau này có chủ trương sai lạc đi,nhưng từ nguyên thủy Đức Phật đã dạy rằng nếu ta cóđạt được Giác ngộ hoàn hảo, thì chắc chắn sự Giácngộ ấy ta không đạt được bằng cách hành hạ thân xác,cũng không phải bằng những nghi lễ phức tạp hay bằng nhữnglời cầu nguyện, nhưng bằng cách bảo vệ thật kỷ cươngtâm thức của chính ta. Khi nào ta vẫn còn vướng mắc trongchu kỳ luân hồi vì vô minh cội rễ không cho phép ta quánnhận được bản chất thật sự về sự hiện hữu của bảnthân ta, thì khi đó xoá bỏ tấm màn vô minh vẫn còn là mộtyếu tố chính yếu thúc đẩy việc tu tập Trí tuệ. Hiểuđược như thế ta sẽ ý thức được tầm quan trọng củacon đường đưa ta đến sự hiểu biết.

Tậpthơ của Tịch Thiên được ghi chép từ thế kỷ thứ VIII,và ngay sau đó đã trở thành một văn bản nòng cốt giúpcho người Bồ-tát trên đường tu tập, một con đường thậtdài hướng đến sự hiển lộ hoàn toàn của Phật tính. Trongtập thơ này khởi sự từ chương V đến chương IX các chủđề như Bảo toàn sự Tinh tấn, Nhẫn nhục, Kiên trì, Suytư và Sự Hiểu biết Siêu nhiên được nêu lên và tập trungvào hai điều sau cùng trong số Sáu điều hoàn thiện Trí tuệ(3). Bốn chương đầu tiên tiên từ I đến IV của tập thơ– gồm có các chủ đề Tán tụng về Tư duy tỉnh thức ;Xám hối, Ý thức về Tư duy tỉnh thức và Ứng dụng vềTư duy tỉnh thức – lại dành riêng để nói đến các thểdạng khác biệt của Bồ-đề tâm (tức ước vọng đạt đượctâm linh tỉnh thức). Chương X trình bày những ước vọngvô cùng cảm động về lòng thương người của những vịBồ-tát.

TậpHành trình đến Giác ngộ khi mới được phổ biến đã sớmchinh phục được một số quần chúng rộng rải trên đấtẤn và Tây tạng – tác phẩm này được dịch sang tiếngTây tạng ngay từ thế kỷ thứ IX. Và suốt trong nhiều thếkỷ sau đấy, đã trở thành một « văn bản cội rễ », ảnhhưởng sâu đậm đến nhiều trào lưu quan trọng củaPhật giáo, các vị thầy lừng danh Ấn độ và Tây tạng thaynhau đưa ra nhiều lời bình giải.

Ảnhhưởng này vẫn không suy yếu trên giòng thời gian, Vị Đạt-LaiLạt-Ma hiện tại vẫn thường trích dẫn nhiều đoạn trongbài thơ trường thiên đó của Tịch Thiên vào những buổithuyết giảng của Ngài về Phật giáo. Ngài cho rằng tiếtthơ tứ tuyệt sau đây có thể xem là một rong những nguồnhứng khởi lớn lao và hùng mạnh nhất :

Khinào không gian còn tiếp tục,
Khinào chúng sinh còn hiện hữu,

Tôivan xin được còn đây,

Đểlàm tan biến những khổ đau của thế gian này.

ĐứcĐạt-Lai Lạt-Ma sẽ trình bày về chương IX của tâp thơ,dựa trên hai cách bình giải đáng chú ý nhất đã đượcsoạn thảo vào thế kỷ thứ XIX, hai cách bình giải này tiêubiểu cho hai trường phái Phật giáo khác nhau. Cách bình giảithứ nhất do Khentchen Kunzang Palden đưa ra trong tập luậnHương vị tuyệt vời về những lời giảng của Manjushri,và tập luận này thuộc truyền thống Ninh-mã (Nyingmapa). Cáchbình giải thứ hai của Minyak Kunzang Seunam trình bày trong tậpluận Ngọn đuốc sáng ngời, một tập sách phản ảnh đườnghướng của trường phái Cách-lỗ (Guélougpa). Không nhữngĐức Đạt-Lai Lạt-Ma đã trình bày thật cặn kẽ văn bảncủa Tịch Thiên, mà Ngài còn góp thêm những lời bình giảixuất phát từ những suy tư của riêng Ngài trong việc tu họcPhật Pháp. Những suy tư đó được trình bày riêng rẽ vớiphần bình giải của tập sách và mang tiểu đề « Sự hiểubiết siêu nhiên », trong mục đích giúp người đọc theo dõiphần trình bày văn bản nguyên thủy một cách dễ dàng hơn.Đức Đạt-Lai Lạt-Ma so sánh song song hai cách bình giải xưacủa Tây tạng, đồng thời trình bày thêm cách bình giảicủa riêng của Ngài. Với những lời bình giải trên đây,Đức Đạt-Lai Lạt-Ma sẽ đưa ta đi sâu vào một trong nhữngtrước tác quan trọng nhất của Đại thừa, còn gọi là Cỗxe lớn.

Bàigiáo huấn này được Đức Đạt-Lai Lạt-Ma thuyết giảngtại viện Vajra Yogini trên đất Pháp vào tháng mười mộtnăm 1993, do lời mời của Hiệp hội những người Phật giáoTây tạng tại Pháp. Bài giáo huấn này là phần tiếp nốicủa một loạt thuyết trình đã được tổ chức trước đótrong vùng Dordogne (Pháp) từ tháng tám năm 1991, đề cập đếntám chương đầu tiên trong tập Hành trình đến Giác ngộ.Quyển sách này của Đức Đạt-Lai Lạt-Ma đã ban cho chúngta những lời bình giải thâm sâu, minh bạch, hàm chứanhiều xúc động về một trong những tác phẩm cổ điểnvà đẹp nhất của Phật giáo.

ThuptenJinpa
Montréal,2004

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
26/05/2021(Xem: 5196)
Phật Đà sau khi thành Chánh Đẳng Chánh Giác nơi cội Bồ Đề, trong thời gian hai mươi mốt ngày, chỉ riêng mình thọ dụng diệu lạc giải thoát, tự riêng cảm niệm lý pháp tịch tịnh vi diệu thậm thâm khó thấy, không phải cảnh giới của tìm cầu, chỉ có bậc trí mới chứng ngộ được; chúng sanh thì bị nhiễm trước thâm sâu ngã kiến, ái lạc phiền não nặng nề, mặc dù họ được nghe Phật Pháp, e rằng cũng không thể rõ thấu, chỉ uổng công vô ích, chi bằng im lặng tịnh trụ tốt hơn. Sau đó Đại Phạm Thiên Vương ân cần cầu thỉnh Phật thuyết pháp, Thế Tôn mới đến Lộc Dã Uyển ngoài thành Ba La Nại Tư, vì năm ông thị giả lúc trước bỏ Phật mà vào trong đây tu khổ hạnh gồm có: A Nhã Kiều Trần Như, Át Bệ, Bạt Đề, Thập Lực Ca Diếp, Ma Nam Câu Lợi, giảng pháp môn Tứ Đế: Khổ, Tập, Diệt, Đạo. Năm vị sau khi nghe pháp thấu hiểu ý nghĩa các lậu đều dứt, chứng thành bậc A La Hán, đây là Tam Bảo đầu tiên mới thiết lập trong thế gian: Đại Thánh Phật Đà là Phật Bảo, Pháp Luân Tứ Đế là Pháp Bảo, Năm A La Hán là Tăng Bảo.
24/05/2021(Xem: 4671)
Đại thừa lấy việc chăn trâu dụ cho việc điều tâm, luyện tâm. Cái tâm đó, nguyên lai thuần hậu, nhưng đã bị đánh lạc mất, để nó chạy rông, buông lung theo sở thích không biết gì đến những hiểm nguy rình rập, cho nên phải tìm lại, và chế ngự cho thuần tính. Cái tâm vọng động xấu xa lần hồi được gạn lọc khỏi các cấu nhiễm trần gian sẽ sáng dần lên và từ chỗ vô minh sẽ đạt tới cảnh giới vòng tròn viên giác. Đó là tượng trưng cho phép tu “tiệm”. Theo phép tu tiệm thì phải tốn rất nhiều công phu mới tiến đến được từng nấc thang giác ngộ. Nhờ công phu, cái vọng tâm lần hồi gạn lọc được trần cấu mà sáng lần lên, cũng như nhờ được chăn dắt mà con trâu hoang đàng lâu ngày trở nên thuần thục dần dần và lớp da đen dơ dáy trắng lần ra.
24/05/2021(Xem: 3850)
Cơn đại dịch quét qua địa cầu gây điêu đứng và làm xáo trộn cả đời sống của nhân loại. Nó tước đi những sinh mệnh, làm đảo lộn nếp sống của từng cá nhân, gia đình, xã hội, quốc gia và quốc tế. Nó không phân biệt, nể trọng hay nhường nhịn ai; không kỳ thị trí thức hay bình dân, giàu hay nghèo, già hay trẻ, nam hay nữ, khỏe mạnh hay yếu đuối. Nó ly cách từng cá nhân, chia lìa những gia đình, khoanh vùng từng xã hội; và như lưỡi hái khổng lồ của tử thần, nó phạt ngang, san bằng tất cả những gì nằm trên lối đi thần tốc của nó.
24/05/2021(Xem: 7766)
Ca khúc phổ nhạc “Đóa Hoa Dâng Đời... Của Ns Phật Giáo Hằng Vang từ bài thơ có tựa là “ Đóa Hoa Ngàn Đời... Của Huyền Lan đăng tuần báo Giác Ngộ đặc biệt Phật Đản số 110 ra ngày 09/05/1998. Sau đó vào năm 2003. Cư Sỹ Tống Hồ Cầm – Phó Tổng Biên Tập Báo Giác Ngộ - tức nhà thơ Tống Anh Nghị - Chủ Nhiệm CLB thơ ca Báo Giác Ngộ, hợp tuyển thơ báo Giác Ngộ nhiều tác giả có tên gọi “Sắc Hương Hoa Bút... Được tuyển chọn vào tập thơ nhiều tác giả nầy...
24/05/2021(Xem: 4864)
Ni sư Thích Nữ Giới Hương có lẽ là vị trụ trì viết nhiều nhất ở hải ngoại. Đó là theo chỗ tôi biết, trong cương vị một nhà báo nhiều thập niên có liên hệ tới nhà chùa và công việc xuất bản. Viết là một nỗ lực gian nan, vì phải đọc nhiều, suy nghĩ nhiều, phân tích nhiều, cân nhắc kỹ rồi mới đưa chữ lên mặt giấy được. Đặc biệt, Ni sư Giới Hương cũng là vị trụ trì viết bằng tiếng Anh nhiều nhất. Tôi vẫn thường thắc mắc, làm thế nào Ni sư có đủ thời giờ để gánh vác Phật sự được đa dạng như thế. Nghĩ như thế, vì tự thấy bản thân mình, nghiệm ra, không có đủ sức đọc và viết nhiều như Ni sư.
18/05/2021(Xem: 6303)
Phật sử ghi lại rằng, vào canh Ba đêm thành đạo, đức Phật đã tìm ra câu giải đáp làm sao thoát khỏi cảnh “Sinh, Già, Bệnh, Chết”, tức thoát khỏi vòng “luân hồi sinh tử”. Câu trả lời là phải đoạn diệt tất cả “lậu hoặc”. Lậu hoặc chính là những dính mắc phiền não, xấu xa, ác độc, tham, sân, si… khiến tâm con người bị ô nhiễm từ đời này sang đời khác, và đời này con người ta vẫn tiếp tục huân tập lậu hoặc, tạo thành nghiệp. “Lậu hoặc” hay “nghiệp” là nguyên tố nhận chìm con người trong luân hồi sanh tử, là nguyên nhân của khổ đau. Muốn chấm dứt khổ đau, chấm dứt luân hồi sanh tử thì phải đoạn diệt tất cả các lậu hoặc, không có con đường nào khác!
18/05/2021(Xem: 5431)
Năm 1959 một sự đe dọa của Tàu Cộng chống lại Đức Đạt Lai Lạt Ma đưa đến sự phản kháng ở Lhasa. Hy vọng tránh được một cuộc tắm máu, ngài đã đi lưu vong và hơn 150,000 Tây Tạng đã đi theo ngài. Bất hạnh thay, hành động này đã không ngăn được sự tắm máu. Một số báo cáo nói rằng khoảng một triệu người Tây Tạng đã chết trong năm đó như một kết quả trực tiếp của việc Tàu Cộng xâm chiếm Tây Tạng.
16/05/2021(Xem: 12319)
Nhận xét rằng, Chúng ta đang đứng trước một khúc quanh gấp của lịch sử nhân loại. Đại dịch Covid-19 đã khép kín mỗi cá nhân trong một không gian chật hẹp, cách ly xã hội, cô lập cá nhân, cách ly cả những người thân yêu. Nó đã tạo ra những khủng hoảng tâm lý trầm trọng trong nhiều thành phần xã hội. Một số đông bị quẫn bức, không thể tự kềm chế, bỗng chốc trở thành con người bạo lực, gieo kinh hoàng cho xã hội. Một số khác, có lẽ là số ít, mà phần lớn trong đó là thanh thiếu niên, khởi đầu cũng chất đầy oán hận trong lòng, nhưng rồi trước ngưỡng sinh tử sự đại, tự mình phấn đấu tự kềm chế, cuối cùng đã khám phá chính mình, trong trình độ nào đó, với những giá trị nhân sinh chỉ có thể tìm thấy trong những cơn tư duy thầm lặng. Giá trị nhân sinh không thể tìm thấy bằng những cao trào kích động của tuổi trẻ. Thế hệ ấy sẽ làm thay đổi hướng đi của lịch sử Đông Tây qua hai nghìn năm kỷ nguyên văn minh Cơ-đốc, khi mà tín đồ có thể liên hệ trực tiếp với đấng Chí Tôn của mình qua mạng truyền
15/05/2021(Xem: 5520)
Phần này bàn về niên hiệu Long Thái và chúa Khánh ở Cao Bằng vào thời LM de Rhodes đến truyền đạo. Đây là lần đầu tiên các danh từ như vậy được dùng trong tiếng Việt qua dạng con chữ La Tinh (chữ quốc ngữ). Các tài liệu tham khảo chính của bài viết này là cuốn "Chúa Thao cổ truyện" và bốn tác phẩm của LM de Rhodes soạn: (a) cuốn Phép Giảng Tám Ngày (viết tắt là PGTN), (b) Bản Báo Cáo vắn tắt về tiếng An Nam hay Đông Kinh (viết tắt là BBC), (c) Lịch Sử Vương Quốc Đàng Ngoài 1627-1646 và (d) tự điển Annam-Lusitan-Latinh (thường gọi là Việt-Bồ-La, viết tắt là VBL) có thể tra tự điển này trên mạng, như trang http://books.google.fr/books?id=uGhkAAAAMAAJ&printsec=frontcover#v=onepage&q&f=false.
15/05/2021(Xem: 5078)
Không nói được tiếng Tây Tạng và chưa bao giờ dịch tác phẩm nào nhưng Evans-Wentz được biết đến như một dịch giả xuất sắc các văn bản tiếng Tây Tạng quan trọng, đặc biệt là cuốn Tử Thư Tây Tạng ấn bản năm 1927. Đây là cuốn sách đầu tiên về Phật giáo Tây Tạng mà người Tây Phương đặc biệt quan tâm. Ông Roger Corless, giáo sư Tôn Giáo Học tại đại học Duke cho biết: “Ông Evans-Wentz không tự cho mình là dịch giả của tác phẩm này nhưng ông đã vô tình tiết lộ đôi điều chính ông là dịch giả.”
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]