Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

23. Quy Y Tam Bảo

02/01/201107:39(Xem: 8105)
23. Quy Y Tam Bảo

23. Quy Y Tam Bảo

(Niệm hương bạch Phật).

Nguyện đem lòng thành kính
Gởi theo đám mây hương
Phưởng phất khắp mười phương
Cúng dường ngôi Tam bảo.
Thề trọn đời giữ đạo
Theo tự tánh làm lành
Cùng pháp giới chúng sanh
Cầu Phật từ gia hộ.
Tâm bồ-đề kiên cố,
Chí tu học vững bền,
Xa bể khổ nguồn mê
Chóng quay về bề giác
*
Đấng Pháp vương vô thượng
Ba cõi chẳng ai bằng
Thầy dạy khắp trời, người,
Cha lành chung bốn loài.
Quy y tron một niềm
Dứt sạch nghiệp ba kỳ
Xưng vương cùng tán thán
Ức kiếp không cùng tận.

Chí tâm đảnh lễ: Nam mô tận hư không, biến pháp giới, quá hiện vị lai, thập phương chư Phật, tôn pháp, hiền thánh tăng, thường trú Tam bảo.

Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Sa-bà giáo chủ, đại từ bi Thích Ca mâu ni Phật, Đương lai hạ sanh Di lặc tôn Phật, Đại trí Văn thù sư lợi Bồ-tát, Thanh tịnh Đại hải chúng Bồ-tát.

Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Tây phương cực lạc thế giới, đại từ đại bi, A-di-đà-Phật, Đại bi Quán thế âm Bồ-tát, Đại-lực-Đại thế chí Bồ-tát, Thanh tịnh Đại hải chúng Bồ-tát.

Nam mô Đại bi hội thượng Phật Bồ-tát (3 lần).

Thiên thủ thiên nhãn vô ngại đại bi tâm đà ra ni: Nam mô hát ra đát ra đát ra dạ da. Nam mô a rị da. Bà lô yết đế thước bát ra da. Bồ-đề tátđỏa bà da. Ma ha tát đỏa bà da. Ma ha ca rô ni ca da. Án Tát bàn ra phạt duệ. Số đát na đát tả. Nam mô tất cát lật đỏa y mông a rị da. Bà lôcát đế thất Phật ra lăng đà bà. Nam mô na ra cẩn trì. Hê rị ma ha bàn đa sa mế. Tát bà a tha đậu du bằng. A thệ dựng. Tát bà tát đá, na ma bà dà. Ma phạt đặc đậu. Đát diệt tha. Án .A bà lô hê, lô ca dế. Ca ra dế. Di hê rị. Ma ha bồ đề tát đỏa. Tát bà tát bà. Ma ra ma ra, ma hê ma hê rị đà dựng. Câu lô câu lô yết mông. Độ lô độ lô phạt xà da đế, ma ha phạt xà da đế. Đà ra đà ra. Địa rị ni. Thất Phật ra da. Dà ra dá ra. Mạ mạ. Phạt ma ra. Mục đế lệ. Y hê y hê, thất na thất na. A ra sâm Phật ra xá lị, phạt xa phạt sâm. Phật ra xá da. Hô lô hô lô ma ra, hô lô hô lô hê rị. Sa ra sa ra. Tất rị tất rị. Tô rô tô rô. Bồ đề dạ bồ đề dạ. Bồ đàda bồ đà dạ. Di đế rị dạ. Na ra cẩn trì.. Địa rị sắt ni na. Ba dạ ma na, sa bà ha. Tất đà dạ sa bà ha. Ma ha tất đà dạ, sa bà ha. Tất đà du nghệ. Thất bàn ra dạ, sa bà ha. Na ra cẩn trì, sa bà ha. Ma ra na ra, sabà ha. Tất ra tăng a mục khư da, sa bà ha. Sa bà ma ha a tất đà dạ, sa bà ha. Giả cát ra a tất đà dạ, sa bà ha. Ba đà ma yết tất đà dạ, sa bà ha. Na ra cẩn trì bàn dà ra da, sa bà ha. Ma bà lị thắng yết ra dạ, sa bà ha. Nam mô hát ra đát na đá ra dạ da. Nam mô a lị da. Bà lô cát đế. Thước bàn ra dạ, sa bà ha. Án, tất điện đô, Mạn đa ra, Bạt đà da, sa bà ha.

*

Hôm nay có các đệ tử phát tâm quy y Tam bảo, tức là quy y Phật, qui y pháp, quy y Tăng.

Quy y có nghĩa là trở về nương tựa. Phật như cha mẹ đối với chúng sanh luôn luôn đem tâm từ bi thương yêu dìu dắt giáo hóa. Nhưng chúng sanh có người có duyên có phước vâng theo lời Phật trở về theo con đườnggiác ngộ của Ngài tu hành, cũng có người không vâng theo lời Đức Phật mà bước theo con đường si mê lầm lạc. Một ngày nào đó, kẽ lầm lạc đó nhớlại, biết lại, muốn tìm con đường sáng suốt giải thoát, sống cuộc đời an lạc, cho nên trở về với Đức Phật, nương tựa theo Đức Phật, làm đệ tử Đức Phật, tôn thờ Đức Phật làm vị Bổn sư của mình. Như vậy gọi là qui y.

Thế nào là qui y Đức Phật?

Quy y Đức Phật là qui y đấng Giác ngộ giải thoát. Đức Phật Thích camâu ni vốn là một vị Thái tử, một vị vua không thiếu thứ gì đối với thế gian. Thế tại sao Ngài lại bỏ ngôi vua để đi xuất gia, sống một minhtrong rừng sâu khổ hạnh 6 năm trường. Trong khi người thế gian mong mỏiđược cái ngôi vị như Ngài, giàu sang phú quí như Ngày mà không được, trong khi Ngài đã được rồi còn thiếu gì nữa mà Ngài bỏ để đi tu? Tu một mình sống cực khổ trong 6 năm ở chốn rừng sâu là vì Ngày thấy rằng, cuộcđời vô thường mong manh, bao nhiêu vật chất của cải có đó không đó, nếukhông tỉnh ngộ mà đắm say theo cảnh đời như vậy, chấp chặt cái đó là của mình như tài sản, danh vọng trôi qua mất đi thì không tránh khỏi sự phiền đau khổ não. Chúng sanh vì lăn lộn theo cái tâm hẹp hòi nhỏ mọn, chấp nhạ, chấp nhơn, chấp theo sự vật, chấp theo của cải, theo danh vọngtất cả đều cho là thật mà không biết rằng tất cả đều có đó không đó. Nếu khi được tỉnh ngộ rồi tất nhiên đối với tất cả của cải ta luôn luôn quá rõ cái ngĩa vô thường của nó, cho nên có cũng không lấy làm vui, mà kiêu căng ngạo mạng. Trái lại có mất ta cũng không lấy làm buồn mà sinh ra cái tâm gian tham trộm cắp. Đạt được cái lý vô thường như vậy thì sẽ sống một cuộc đời tự tại yên vui, không bị cái giàu, không bị cái nghèo chi phối. Người giàu bị của cải chi phối, người nghèo thì thiếu ăn thiếumặc chi phối, làm cho cái tâm luôn luôn bị dằn dặc đau khổ, không tự tại, không giải thoát, không an vui được. Mục đích của cuộc đời là gì? Mục đích của cuộc đời là sống một cuộc đời an vui, chứ không phải là sống một cuộc đời nhiều của cải. Nếu nhiều của cải, không đạt được mục đích, ý nghĩa của đời người.

Đức Phật muốn dạy một bài học lớn cho chúng sanh về ý nghĩa đó, cho nên Ngài đã bỏ tất cả kinh thành, thê tử để xuất gia tu hành, hầu un đúc, tạo nên một sự giác ngộ giải thoát, chứng được cái chân lý của sự vật. Từ đó Ngài đã 45 năm, ngày đi giảng tối về nghỉ, cứ thế cho đến lúc80 tuổi Ngài nhập Niết-bàn. Cho đến cái giờ phút cuối cùng, Ngài sắp sửa Niết-bàn, thế mà có một người già tới xin gặp Phật cho được. Các hàng đệ tử không cho ông ấy vào gặp, Ngài khuyên các đệ tử để cho ông tavào. Thế rồi ông ta đi đến đức Phật, Ngài cũng giáo hóa cho, sau này được chứng ngộ, chứng thành đạo quả.

Cuộc đời Đức Phật như vậy, vì một tâm từ bi cứu khổ chúng sanh cho nên Ngài đã bỏ quốc thành thê tử xuất gia, cũng vì cái tâm từ bi cứu vớtchúng sanh cho trong 45 năm, Ngài cũng mang bình bát đi khất thực từ nhà này sang nhà khác và để giáo hóa cho chúng sanh.

Tăng là các vị đệ tử xuất gia của Đức Phật. Phật một mình đi giáo hóatrước tiên là độ cho bậc xuất gia làm đệ tử để phụ lực cho Ngài đi giáohóa. Sau khi Ngài thuyết pháp tại vườn Lộc-Uyển, độ 5 vị Tỳ-kheo xong, Ngài bảo các ông hãy chia nhau đi khắp nơi để đem cái pháp giải pháp củaTa đến cho tất cả mọi người. Do đó các vị Tăng đó tiếp tay với Phật chonên mới truyền bá được lời dạy của Phật. Mặc dầu Phật đã Niết-bàn trên 2500 năm mà giáo pháp Ngài hôm nay vẫn còn chính do các vị cao tăng thạcđức đem giáo pháp của Phật truyền bá. Thành các vị xuất gia tu hành chơn chánh đó là người bạn lành của chúng sanh, người bạn lành của mọi người. Thân cận các vị xuất gia tu hành chơn chính thì sẽ thân cận được giáo pháp của Đức Phật, nghe được lời dạy của Đức Phật. Cho nên qui y Phật rồi, qui y pháp rồi thì phải qui y Tăng nữa. Khi đã qui y Phật, Pháp,Tăng như vậy thì sẽ trở thành một người Phật tử, chính thức là con của Phật.

Như vậy các Phật tử đã nghe rõ, qui y Phật là thế nào, qui y Pháp là thế nào, và qui y Tăng là thế nào.

Các Phật tử. (Dạ!) Trước khi muốn qui y Tam bảo, các người phải phát lồ sám hối. Chỉ có pháp sám hối, thân tâm của các người mới được thanh tịnh, các người mới có thể đón nhận giới pháp thanh tịnh của chư Phật. Vậy các người hãy vận hết tâm thành sám hối để dứt trừ tất cả mọi tộ chướng vô thỉ đến nay, làm cho các người trôi lăng mãi trong sáu đường ác, chịu luân hồi quả báo. Vậ các người hãy nói theo tôi:

Đệ tử vốn tạo các vọng nghiệp,
Đều do vô thỉ tham, sân, si
Từ thân, miệng, ý phát sanh ra
Đệ tử thành xin sám hối. (3 lần)

Bây giờ các vị chấp tay thành kinh để nói theo lời tôi hướng dẫ từng câu một để qui y Tam bảo:

1. Đệ tử chúng con
Chí thành phát nguyện
Suốt đời qui y Phật.

2. Đệ tử chúng con
Chí thành phát nguyện
Suốt đời qui y Pháp.

3. Đệ tử chúng con
Chí thành phát nguyện
Suốt đời qui y Tăng.

4. Đệ tử chúng con
Chí thành phát nguyện
Suốt đời qui y Phật

5. Đệ tử chúng con
Chí thành phát nguyện
Suốt đời qui y Pháp.

6. Đệ tử chúng con
Chí thành phát nguyện
Suốt đời qui y Tăng.

7. Đệ tử chúng con
Chí thành phát nguyện
Suốt đời qui y Phật.

8. Đệ tử chúng con
Chí thành phát nguyện
Suốt đời qui y Pháp.

9. Đệ tử chúng con
Chí thành phát nguyện
Suốt đời qui y Tăng.

10. Đệ tử chúng con
Chí thành phát nguyện
Suốt đời qui y Phật.
Là đấng giác ngộ hoàn toàn
Từ bi viên mãn
Cứu độ chúng sanh
Thoát vòng đau khổ.

11. Đệ tử chúng con
Chí thành phát nguyện
Suốt đời qui y Pháp,
Là lời dạy cao cả
Giải thoát của Đức Phật.

12. Đệ tử chúng con
Chí thành phát nguyện
Suốt đời qui y Tăng.
Là các bậc Bồ tát, La-hán
Các bậc Thánh Tăng
Tu hành theo Phật.

13. Đệ tử chúng con
Chí thành phát nguyện
Suốt đời qui y Phật.
Là đấng giác ngộ hoàn toàn
Từ bi viên mãn
Cứu độ chúng sanh
Thoát vòng đau khổ.

14. Đệ tử chúng con
Chí thành phát nguyện
Suốt đời qui y Pháp,
Là lời dạy cao cả
Giải thoát của Đức Phật.

15. Đệ tử chúng con
Chí thành phát nguyện
Suốt đời qui y Tăng.
Là các bậc Bồ-tát, La-hán
Các bậc Thánh Tăng
Hành theo Phật.

16. Đệ tử chúng con
Chí thành phát nguyện
Suốt đời qui y Phật.
Là đấng giác ngộ hoàn toàn
Từ bi viên mãn
Cứu độ chúng sanh
Thoát vòng đau khổ.

17. Đệ tử chúng con
Chí thành phát nguyện
Suốt đời qui y Pháp,
Là lời dạy cao cả
Giải thoát của Đức Phật.

18. Đệ tử chúng con
Chí thành phát nguyện
Suốt đời qui y tăng
Là các bậc Bồ-tát, La-hán
Các bậc Thánh Tăng
Tu hành theo Phật.

19. Đệ tử chúng con
Chí thành phát nguyện
Suốt đời qui y Phật rồi,

20. Đệ tử chúng con
Chí thành phát nguyện
Suốt đời qui y Pháp rồi,

21. Đệ tử chúng con
Chí thành phát nguyện
Suốt đời qui y Tăng rồi,

22. Đệ tử chúng con
Chí thành phát nguyện
Suốt đời qui y Phật rồi,

23. Đệ tử chúng con
Chí thành phát nguyện
Suốt đời qui y Pháp rồi,

24. Đệ tử chúng con
Chí thành phát nguyện
Suốt đời qui y tăng rồi,

25. Đệ tử chúng con
Chí thành phát nguyện
Suốt đời qui y Phật rồi,

26. Đệ tử chúng con
Chí thành phát nguyện
Suốt đời qui y Pháp rồi,

27. Đệ tử chúng con
Chí thành phát nguyện
Suốt đời qui y Tăng rồi,

28. Đệ tử chúng con
Chí thành phát nguyện
Đã qui y Phật rồi
Đời đời kiếp kiếp
Không qui y trời thần qủy vật.

29. Đệ tử chúng con
Chí thành phát nguyện
Đã qui y Pháp rồi,
Nguyện đời đời kiếp kiếp
Không qui y ngoại đạo tà giáo.

30. Đệ tử chúng con
Chí thành phát nguyện
Đã qui y Tăng rồi
Nguyện đời đời kiếp kiếp
Không qui y thầy tà bạn ác.

*

Nam mô Chứng Minh sư Bồ-tát. (3 lần)
Nhất tâm đảnh lễ thập phương thường trú Tam bảo tam bái. (3lạy)
Hồ quì hiệp chưởng. (quì xuống)

Các Phật tử: - Mô Phật.

Như vậy là các Phật tử đã qui y Tam bảo rồi, chính thức là người con của Đức Phật, từ nay là người con chính thức trong gia đình của Phật, luôn luôn nhớ Tam bảo, Phật Pháp Tăng mình đã qui y suốt đời, chứ không phải qui y trong ngày này, ngày khác, không phải qui y ở tại đây mà ở tại chỗ khác không, một lần qui y Phật là thành đệ tử Phật suốt đời, cũng như cha mẹ mình sinh mình ra tức nhiên là sinh ra suốt đời. Thành một đời chỉ có cha mẹ sinh ra một lần chứ không có nhiều cha mẹ sinh. Khi làm đệ tử đã qui y với Phật cũng chỉ có Tam bảo là cha mẹ suốt đời của minh, chứ không có nhiều cha mẹ khác. Giữ cho được tam qui như vậy tức là giữ lòng chánh tín đối với Tam bảo, có một lòng tin thẳng thắn, đứng đắn.

Sau khi qui y Đức Phật còn dạy hàng Phật tử tại gia thọ trì 5 điều răn cấm. Năm điều răn cấm này là cơ bản của đời sống đạo đức. Dầu là người tại gia, người xuất gia, người theo Phật, người không theo Phật cũng cần sống có đạo đức. Không sống có đạo đức thì không còn nhân phẩm,không còn là người, cho nên sống đạo đức là một điều cần thiết. Mà đệ tử của Phật sống đạo đức là cơ bản có trong điều răn cấm.

Trước hết là không sát sinh, vì sao Phật chế ra giới nầy? Bởi vì Đức Phật dạy rằng: Ai ai cũng sợ

Sợ gươm đao ai ai cũng sợ chết, vậy lấy lòng mình suy lòng người chớ giết, chớ bảo giết. Vì tâm từ bi thương yêu, thương cái sự sống của tất cả mọi người mà Phật cái tâm từ bi, không giết hại trước hết là với đồngloại, cố gắng giữ gìn không đem tâm độc ác, mưu mô hung dữ, để mà giết hại mạng sống của kẻ khác. Tội sát sanh là tội lớn hơn bất cứ tội gì khác, bởi tội khác chỉ làm cho người ta đau khổ, chứ tội giết làm cho người ta mất mạng luôn. Do đó điều răn cắm trước trước tiên là cấm sát sinh. Đối với mọi người phải sống cuộc sống hiền hòa, không đem tâm mưu hiểm mong cho họ chết để minh sống. Đó là không sát sinh. Đối với hàng cư sĩ thí một tháng hai ngày chay hay 4,6 ngày... đó cũng là một cách thể hiện cái tâm từ bi không sát sinh.

Với giới không sát sinh, các người có giữ được không?

- Mô Phật, giữ được.

Thứ hai là không trộm cắp. Trộm cắp là lấy của người khác làm của minh. Ai có của cải cũng mong giữ cho toàn, chứ không ai muốn mất mát. Mình không muốn mất mát thì người khác cũng không muốn mất mát, thế mà đem cái tâm gian tham lấy của người ta là có tội. Nên cần phải giữ cái giới không trộm cắp.

Với giới không trộm cắp, các người có giữ được không?

- Mô Phật, giữ được.

Thứ ba là không tà dâm. Đới với hàng cư sĩ thì còn có lập gia đinh, nhưng lập gia đình phải theo phép tắc, luật lệ của xứ sở đó, không được trái với luật lệ. Làm trái với luật lệ là phạm tội tà dâm. Đó là điều cấm kỵ, điều xấu không nên làm, cho nên người Phật tử cố gắng giữ.

Với giới không tà dâm, các người có giữ được không?

- Mô Phật, giữ được

Thứ tư là không nói dối, không nói thêu dệt, không nói đâm thọc, không nói vu khống, không nói hung dữ. Cái miệng của minh nói ra rất dễ,nhưng nói cho tử tế, cho hiền lành rất khó. Tục ngữ có câu "Lời nói chẳng mất tiền mua, lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau". Cũng vì lẽ đó, giới không tu sẽ ác miệng, sẽ nói hung ác, sẽ nói thêu dệt, sẽ nói đâm thọc, sẽ nói vu khống, những lời nói ấy chỉ đem lại sự đau khổ cho ngườikhác. Khi đã đem lại sự đau khổ cho người khác, chính minh cũng sẽ manglại cái quả báo đau khổ đó, không chạy đi dường nào hết. Cho nên không nói dối,không thêu dệt, đâm thọc, vu khống, hung dữ mà tập nói hòa thuận, thương yêu, dịu ngọt, hiền lành, đứng đắn, đó cũng là một cách tu. Tu cái khẩu nghiệp của minh cho được thanh tịnh.

Với giới không nói dối, các người có giữ được không?

- Mô Phật, giữ được

Thứ năm là không được say sưa rựơu chè. Xã hội ngày nay bị cái nạn xìke ma tuý nó làm điên đảo, nó làm tai hại, làm khốn đôn bao nhiêu gia đình. Nếu một người Phật tử sa vào cái cảnh say sưa rượu chè xì ke ma túthì tư cách, nhân phẩm của minh không còn nữa thì làm sao bình tỉnh nhận ra cái điều lành mà theo, điều dữ mà tránh. Cho nên Đức Phật dạy giới thứ năm là không được say sưa rượu chè. Nếu ở đời, còn vì cái xã giao, cái tập quán, cái lễ nghĩa thì cũng phải hạn chế hết sức, không đểcho rượu chè làm điên đảo tâm tư.

Với giới không say sưa rượu chè, các người có giữ được không?

- Mô Phật, giữ được

Đối với năm cấm giới này, các Phật tử hãy cố gắng phát nguyện đối trước Tam bảo để thọ trì để giữ gìn để tập luyện. Tjọ trì giữ được năm điều cấm giới thì sẽ sống một đời sống có đạo đức, có nhân phẩm, tức là sống lợi mình, lợi người, tự gíac giác tha như Đức Phật đã từng dạy. Bấynhiêu lời các Phật tử hãy gắng ghi nhớ! Y giáo phụng hành(Phật tử đồng thanh nói)

Chí thành đảnh lễ tam bái.(3 lạy)
Đệ tử kính lạy
Đức Phật Thích Ca,
Phật di-đà,
Thập phương chư Phật
Vô thượng Phật pháp
Cùng thánh hiền Tăng,
Đệ tử lâu đời lâu kiếp,
Nghiệp chướng nặng nề,
Tham giận kêu căng, si mê lầm lạc
Ngày nay nhờ Phật,
Biết sự lỗi lầm,
Thành tâm sám hối,
Thề tránh điều dữ,
Nguyện làm việc lành,
Ngửa trông ơn Phật,
Từ bi gia hộ,
Thân không tật bệnh,
Tâm không phiền não;
Hằng ngày an vui tu tập,
Pháp Phật nhiêm mầu
Để mau ra khỏi luân hồi,
Minh tâm kiến tánh,
Trí tuệ sánhg suốt,
Thần thông tự tại,
Đặng cứu độ các bậc tôn trưởng;
Cha mẹ, anh em
Thân bằng quyến thuộc,
Cùng tất cả chúng sanh,
Đều trọn thành Phật đạo.

*

KINH LÒNG BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA

Bồ tát quán tự tại khi đi vào trí tuệ cùng tột sâu thẳm, soi thấy năm uẩn đều không vượt mọi khổ ách.

Này Xá-lợi tử, sắc chẳng khác không, không chẳng khác sắc, sắc tức làkhông, không tức là sắc. Thọ, tưởng, hành, thức cũng lại như vậy.

Này Xá-lợi tử, tướng không của các pháp là không sinh không diệt, không sạch, không nhơ, không thêm không bớt. Cho nên trong tánh không, không có sắc, thọ, tưởng, hành, thức; không có mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý; không có sắc, tiếng, mùi, vị, xúc, pháp; không có nhãn giới chođến không có ý thức giới; không có vô minh cũng không có vô minh hết; cho đến không có già chết hết; không khổ, tập, diệt, đạo, không trí cũngkhông đắc, vì không sở đắc.

Bồ-tát nương trí tuệ cùng tột nên tâm không ngăn ngại; vì kông ngăn ngại, nên không sợ hãi, xa lìa mộng tưởng điên đảo, rốt ráo Niết-bàn.

Chư Phật ba đời nương trí tuệ cùng tột nên chứng được Vô Thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Thế nên biết trí tuệ cùng tột là thần chú lớn, là thần chú sáng lớn, là thần chú vô thượng, là thần chú không gì sánh bằng, dứt trừ hết thảy khổ ách, chơn thật không hư, cho nên nói câu thần chí trí tuệ cùng tột; liền nói thần chú rằng: Yết đế, yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế,bồ đề sa ba ha.

*

THẦN CHÚ THẤY PHẬT DIỆT TỘI

Li bà li bà đế, cầu ha cầu ha đế,đà la ni đế, ni ha ra đế, tì lê nễ đế, ma ha dà đế, chân lăng càn đế, sa bà ha.(3 lần)

Tự qui y Phật, xin nguyện chúng sanh, thể theo đạo cả, phát lòng vô thượng.
Tự qui y Phập, xin thỉnh nguyện chúng sanh, thấu rõ kinh tạng, trí tuệ như biển.
Tự qui y Tăng, xin nguyện chúng sanh, thống lý đại chúng, hết thảy không ngại.

Nguyện đem công đức này,
Hướng về khắp tất cả
Đệ tử và chúng sanh
Đều trọn thành Phật đạo.



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
03/07/2021(Xem: 4805)
- Kính thưa chư Tôn đức, chư Thiện hữu & quí vị hảo tâm. Vào ngày Thứ Bảy (June 12) vừa qua, được sự cho phép của chính quyền địa phương làng Durgagar và Armoba Village Bihar India, nhóm Từ thiện Bodhgaya Heart chúng con, chúng tôi đã tiếp tục hành trình cứu trợ thực phẩm cho dân nghèo mùa Dịch covid. Xin mời chư vị xem qua một vài hình ảnh tường trình.. Buổi phát quà cứu trợ cho 358 căn hộ tại 2 ngôi làng cách Bồ đề Đạo Tràng chừng 9 cây số.
03/07/2021(Xem: 6156)
Kính lễ đạo sư và đấng bảo hộ của chúng con, Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát! Sự thông tuệ của ngài chiếu soi như mặt trời, không bị che mờ bởi vọng tưởng hay dấu vết của si mê, Ngài giữ trong tim một bộ kinh biểu tượng của việc thấy tất cả mọi thứ như chúng là, Người dạy trong sáu mươi cách, với lòng từ bi yêu thương của một từ thân với đứa con duy nhất, Đến tất cả các tạo vật bị giam trong tù ngục của luân hồi, Bối rối trong bóng tối của si mê, tràn ngập bởi khổ đau của họ.
03/07/2021(Xem: 16847)
Vào thời đại khủng hoảng niềm tin của tất cả tôn giáo, lòng người càng lúc hồi hộp bất an, giáo lý đức Thích Ca Mâu Ni như mặt trời chiều xuống bóng hoàng hôn ,Mật Tông Kim Cang Thừa như ngọn đèn sắp tắt, chỉ còn lại những bộ đại tạng kinh phủ đầy bụi trên những kệ kinh, nằm bất tỉnh không ai hỏi thăm trong những tu viên,viện bảo tàng cô đơn thiếu bóng người. Cuốn sách Mật Tông Kim Cang Thừa Chú Giải Toàn Thư Tập Hai, là sự trình bày và phô diễn mật nghĩa thậm thâm của Đại Phật Đảnh Lăng Nghiêm đà la ni , Bát Đại Kim Cang Thần Kinh và các phụ bản vô thượng du già. Là sự trợ duyên cho những ai, đã có gieo hạt giống pháp môn này, có thể khai hoa kết trái thành tựu sự tu tập giải thoát. Linh Quang từ nhỏ xuất gia tu học , tầm sư học đạo, và đi du học nhiều nước, nên trong đầu nhiều ngôn ngữ lộn qua lộn lại, bây giờ Tiếng Việt cũng quên dần,chính tả viết sai nhiều lắm, nên quý vị thông cảm bỏ qua những lỗi lầm về câu văn từ ngữ.
01/07/2021(Xem: 3982)
Kinh Đại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa, đã được chính Đức Thế Tôn tuyên dương là Bổn Kinh Thượng Thừa, bao gồm những bí yếu cực kỳ nhiệm mầu, vi diệu mà Chư Phật trao truyền lại cho những ai đủ tín tâm thọ nhận. Pháp-bảo được lưu truyền đến nay, vẫn sáng ngời toả rạng lưu ly qua bao thăng trầm của thế sự vô thường, với tâm nguyện hoằng truyền Chánh Pháp của các bậc minh sư, tuỳ căn cơ chúng sanh mỗi thời mà soạn dịch. Một, trong những bổn kinh Diệu Pháp Liên Hoa thường được trì tụng tại các tự viện là bổn cố đại lão Hoà Thượng Thích Trí Tịnh biên soạn, hoàn tất với 557 trang, gồm 7 quyển, chia thành 28 phẩm , mỗi phẩm đầy đủ văn kinh và thi kệ. Cũng do nhu cầu và phương tiện tu học của Phật tử mà Hoà Thượng Thích Trí Quảng cũng đã lược soạn Diệu Pháp Liên Hoa Kinh thành Bổn Môn Pháp Hoa Kinh để Phật tử tại các Đạo Tràng Pháp Hoa có thể hàng ngày trì tụng mà không bị gián đoạn vì không đủ thời gian. Bổn Môn Pháp Hoa Kinh được Hoà Thượng trân trọng biên soạn, cô đ
29/06/2021(Xem: 6465)
Kính Pháp Sư Sướng Hoài, tôi tu sĩ Thích Thắng Hoan đọc qua tác phẩm PHẬT HỌC VĂN TẬP của ngài viết nhận thấy ngài một nhà bác học uyên thâm Phật giáo nắm vững mọi tư tưởng cao siêu của cácphái, các tông giáo cả trong đạo lẫn ngoài đời. Toàn bộ tác phẩm của ngài đều xây dựng vững chắc trên lãnh vực biện chứng pháp của Nhân Minh Luận. Nội dung tác phẩm trong đó, mỗi một chủ đề ngài biện chứng bằng những lãnh vực mặt phải mặt trái, chiều sâu chiều cạn, mặt phủ định, mặt xác định,cuối cùng để làm sáng tỏ vấn đề bằng kết luận. Tôi vô cùng kính nể kiến thức của ngài.
29/06/2021(Xem: 6646)
Phật giáo dùng từ bi làm căn bản, xem trọng giới sát nên thực hành phóngs anh.Từ nghĩa là trao cho khoái lạc; Bi nghĩa là san bằng khổ não. Người đời rất quý mến thân mạng, chồng vợ con cháu, tiền của, nhưng từ chối mỗi người không thể che chở bao gồm chung cả. Giả như nếu bất hạnh gặp gian nguy, vì cứu thân mình, thà bỏ tất cả vật ngoài thân, để cầu được sinh tồn riêng mình.Con người đã tham sống sợ chết, sanh mạng con vật nhỏ bé như con muỗi, con ve, sâu bọ, kiến mối, còn biết tránh chạy cái chết cầu mong được sống, thì các động vật khác chúng nó sao lại không như thế?
28/06/2021(Xem: 4252)
Trước khi nói đến tinh thần Trung đạo của Phật giáo, thiết nghĩ cần phân biệt sự khác nhau giữa tinh thần “Trung dung” và “Trung đạo.” “Trung dung” là những thiên trong Kinh Lễ. Sách Trung Dung do Tử Tư làm ra Mục đích của sách Trung Dung là giúp con người hiểu được đạo “Trung dung” để đạt đến một trình độ đạo đức cao hơn. Khổng Tử nói về đạo "trung dung", tức là nói về cách giữ cho ý nghĩ và việc làm luôn luôn ở mức trung hòa, không thái quá, không bất cập và phải cố gắng ở đời theo nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, cho thành người quân tử. Cũng theo tinh thần “Trung dung” như thế, không thể có một thái độ “Trung dung” cố định; tùy thời tùy thế mà linh hoạt. “Trung dung” với ý nghĩa trên là dung hợp, quân bình giữa thái quá và bất cập. Ví dụ : thuyết Duy Vật chủ trương tranh đấu; thuyết Duy Tâm của Đức Khổng Tử, chủ trương điều hòa hai yếu tố cực đoan bằng lẽ Trung Dung.
27/06/2021(Xem: 8700)
Pháp Học và Pháp Hành Khi đề cập đến những người tu trong Phật Giáo, thì chúng ta thấy có phân ra hai khuynh hướng tu học, một số vị thì nghiêng về pháp học, còn số vị khác lại chuyên về pháp hành. Vậy pháp học là gì ? Là cả đời tu chỉ chuyên về việc nghiên cứu, học tập kinh điển, xem các luận bản... để biết được hết Tam tạng kinh điển ( Kinh, Luật, Luận ), nhiều vị còn phiên dịch kinh điển, hay viết ra nhiều bộ luận dựa trên kiến thức, sự hiểu biết đã tích lũy. Nhưng tâm thật sự chứng ngộ, hay đạt đạo thì có thể chưa, chỉ hiểu, chứ chưa thực chứng. ( Còn số vị mà chuyên về pháp học nhưng tâm đã giác ngộ thì rất hiếm có, thời nay càng vô cùng hiếm ).
27/06/2021(Xem: 5888)
- Kính thưa chư Tôn đức, chư Pháp hữu & quí vị hảo tâm. Với tâm niệm hộ trì chư Tôn đức Tăng già, các bậc tu hành nơi đất Phật trong lúc nhiều khó khăn do Dịch covid đang nhiễu nhương, chúng con, chúng tôi đã thực hiện hai buổi cúng dường tịnh tài, tịnh vật và một ít nhu yếu phẩm đến chư Tăng Ni thuộc truyền thống Phật giáo Kim Cương Thừa Tibet tại Dharamsala, các vị Ẩn sỹ trên đỉnh Triund Himachal, cũng như các vị Tăng Ni VN hiện đang theo học PG Mật Tông tại Dharamsala India (19 vị). Sư cô Thích nữ Huệ Thảo đã thừa hành Phật sự này và đã cúng dường tất cả là 245 vị tu sỹ, trong đó có 19 vị tránh tiếp xúc đám đông nên đã nhận chuyển vào tài khoản cá nhân từ Sư cô Huệ Thảo, một số vị vì bịnh trạng đã nhờ bạn đồng tu nhận dùm, mỗi vị thọ nhận 1500INR kèm với một số tịnh vật cúng dường.
26/06/2021(Xem: 16180)
LỜI GIỚI THIỆU “Chết đi về đâu” là tuyển tập các bài pháp thoại của thầy Nhật Từ tại Hoa Kỳ, Úc châu và Việt Nam. Dựa vào kinh điển Phật giáo thuộc các truyền thống khác nhau, thầy Nhật Từ đã phân tích những trở ngại về tâm lí trước cái chết thường làm cho cái chết diễn ra sớm hơn và đau đớn hơn. Nếu chết được hiểu là tiến trình tự nhiên mà mỗi hữu thể đều phải trải qua thì nỗi sợ hãi về cái chết sẽ trở thành nỗi ám ảnh, trước nhất là từ hữu thức sau đó là từ vô thức, làm cho cuộc sống con người trở nên tẻ nhạt và đáng sợ.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]