Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

14. Không nên tự mãn khen mình chê người

02/01/201107:30(Xem: 7313)
14. Không nên tự mãn khen mình chê người

14. Không nên tự mãn khen mình chê người

Nhơn năng hoằng đạo, phi đạo hoằngnhơn (người hoằng đạo chẳng phải đạo hoằng người). Biết rõ như thế nên Giáo hội luôn luôn chú trọng đến đề giáo dục Tăng Ni. Khi thành lập Ban giáo dục Tăng Ni, chúng tôi đã cố gắng vận động xin mở trường Cơ bản Phật học, rồi đến trường Cao cấp Phật học. Cho đến ngày hôm nay, trên cảnước có được 30 trường Cơ bản Phật học và 3 trường Cao cấp Phật học mà nay là Học viện Phật giáo Việt Nam tại Hà Nội, tại Huế và tại thành phố Hồ Chí Minh.

Giáo hội chỉ có cái tâm chú trọng mở trường, nhưng về nhân lực, tài lực thì rất thiếu; tưởng chừng như đạptrâu vô núi kiếm ăn sao thì kiếm, miễn tối dắt về đủ số là được. Nhưng may thay chính nhờ Ban Giám hiệu, Ban Bảo trợ, các vị giảng viên và chính quyền giúp đỡ với tất cả thiện chí, thông cảm cùng chung với Giáo hội, để cho các trường giáo dục của Giáo hội luôn được tiếp tục, và ngàyhôm nay tại đây, vừa thành tựu một khóa học thứ ba với một số Tăng Ni sinh tốt nghiệp ra trường đông đủ. Thành tựu này là nhờ vào việc đóng góp công đức của quí vị trong Ban Giám hiệu, trong Ban Giảng huấn và BanBảo trợ. Thay mặt Giáo hội tôi xin tán thán công đức thiện chí của tất cả.

Như chúng ta đã biết, chí nguyện của người xuất gia là lấy việc hoằng pháp làm gia vụ, lợi sanh làm sự nghiệp. Nhưng làm sao để thực hiện điều đó nếu không có thực học, thực tu. Bao nhiêu năm Tăng Ni đã ghép mình vào khuôn khổ, chịu khó nhọc, cầnmẫn siêng năng theo dõi những lời dạy bảo của các thầy, các vị đã thu thập được một số kiến thức. Ngày hôm nay có được kết quả tốt đẹp như thếnày, đều nhờ công lao thương tưởng của chư vị giáo sư, giảng sư, Ban Giám hiệu và các vị ngoại hộ và sự nỗ lực của anh em Tăng Ni sinh chuyêncần học tập. Tôi rất hoan hỷ và tán thán công đức của tất cả.

Trong kinh Đức Phật dạy rằng: Người cầu đạo giải thoát cũng như người đi tìm lõi cây . Trước một cây to lớn đứng thẳng, nếu không biết rõ cành lá, không biết rõ vỏ ngoài, không biết rõ vỏ trong, không biết rõ giác cây, không biết rõ lõi cây, chỉ chặt một số cành lá ôm về cho đó là lõi cây, rồi hoan hỷ. Vì hoan hỷ, rồi đâm ra tự phụ, tự mãn, khen mình chê người và dừng lại ở đó. Kháhơn, có người bỏ vỏ cây trong, bỏ giác cây, bỏ lõi cây mà lấy được vỏ ngoài, có người lấy được vỏ cây trong, có người lấy được giác cây, có người lấy được lõi cây.

Sự thành công của các Tăng Ni sinhhôm nay có thể có người nằm trong các phần đó. Anh em nên tự kiểm lại, mình đã là người lấy được vỏ cây, lấy được cành lá, lấy được vỏ ngoài, lấy được vỏ trong, lấy được giác cây hay là lấy được lõi cây chưa? Nếu lấy được lõi cây rồi thì không được phép tự mãn, và cũng không được phépkhen mình chê người. Nếu còn khen mình chê người, nếu còn tự mãn, tức nhiên biết rõ ta mới chỉ lấy được vỏ cây, lấy được lá cây chứ chưa lấy được lõi cây. Vậy anh em phải cố gắng làm thế nào để cho mình thực sự lấy được lõi cây chứ đừng có làm lấy ba cái vỏ cây mà đinh ninh rằng, tađã lấy được lõi cây, rồi hoan hỷ, rồi tự mãn, rồi khen mình chê người. Các vị được phép hoan hỷ nhưng không được phép tự mãn, không được phép khen mình chê người. Có như vậy các vị mới tiến lên được, mới tích cực tiến tới lấy cho được lõi cây.

Chúng ta ai cũng biết: Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng là một vị cao Tăng thông bát, tu hành tinh tấn biết bao nhưng ngài vẫn thấy thiếu, vẫn mong mỏi nhập Trúc cầu pháp. Và ngài đã thực hiện một cuộc nhập Trúc cầu pháp vô tiền khoáng hậu, xông pha vào nơi gian nan nguy hiểm. Chúng ta đã biết qua lịch sử, qua chuyện TâyDu, qua phim ảnh. Cuộc hành hương thỉnh kinh của ngài mất hết 16 năm cho đến khi về nước. Khi về nước ngài miệt mài suốt 19 năm phiên dịch, không rời cây bút cho đến ngày nhắm mắt. Qua đó, chúng ta thấy ngài làm việc âm thầm không ồn ào, không phô trương và các công trình nghiên cứu dịch thuật, trước tác kinh điển của ngài để lại cho chúng ta thật quí giá vô cùng.

Cuộc thỉnh kinh của ngài đã được ngài đúc kết và ghi lại trong một bộ truyện gọi là "Tây Vức Ký". Sau nàyNgô Thừa Ân tiểu thuyết hóa thành Tây Du Ký và gần đây các nhà điện ảnhđưa lên thành phim gọi là chuyện Tây Du.

Chúng ta thấy cuộc thỉnh kinh của ngài Huyền Tráng gian nan, vất vả, khó khăn.Và cũng từ khó khăn đó mà sau này ông Ngô Thừa Ân đã tiểu thuyết hóa thành các động ma động quỉ.

Có một lần Tam Tạng Pháp sư nói với Tôn Ngộ Không rằng: Đường xá xa xôi cách trở gian nan nguy hiểm thế này, làm sao đi tới Tây Trúc Ngộ Không? Ngộ Không nói rằng, thầy có thuộc Bát nhã tâm kinh không mà thầy nói thế? Tam Tạng nói: Thầy chùa màkhông thuộc Bát nhã tâm kinh à! Ta đọc ngược còn được nữa là. Ngộ Năng xen vào nói với Ngộ Không: Thế anh có hiểu không mà làm tàng như vậy? Ngộ Không làm thinh. Tam Tạng nói rằng: Nó làm thinh thế là nó hiểu. NgộKhông được khen nói lại rằng: Làm thinh, làm thinh, làm thinh, thấu trong ruột đi hoài cũng đến. Vậy chúng ta hãy học cái làm thinh đó. Học cái làm thinh đó là học hoài học mãi, có ngày sẽ đến đích, tu hoài tu mãi cũng có ngày chứng quả.

Trong thế giới này, loài người chúng ta thường thường hay mắc cái bệnh ồn ào và khoa trương. Ồn ào nơi miệng, ồn ào nơi tâm cho nên học hành không chu đáo, tu hành không tinh nghiêm. Đang học cái này nhảy qua học cái khác, đang học cái kia liền nhảy qua học cái nọ. Tu pháp môn này chưa xong liền nhảy qua tu pháp mônkhác, tu pháp môn kia nhảy qua tu pháp môn nọ. Cứ thế mà chạy vô rồi chạy ra, ồn ào nơi cái miệng, ồn ào nơi cái tâm; kết quả là không học, không tu đến nơi, đến chốn. Thật đáng buồn!

Vậy tôi mong rằng Tăng Ni sinh họcđến ngang đây coi như chúng ta đã đi được một bước, chứ chưa phải đã điđến nơi, về đến chốn đâu! Chúng ta phải cố gắng học tích cực hơn nữa. Các Tăng Ni sinh phải nhận thức rằng: Trong cái học của ta, cái nào là chính, cái nào là phụ, mỗi mặt ta học được áp dụng vào đời có tác dụng như thế nào? Ví dụ: Chúng ta học văn để biết làm văn, học toán để biết làm toán. Vậy thì học Phật để làm gì? Chính là để biết Phật, để làm Phật.

Do đó, các Tăng Ni sinh đừng có quan niệm rằng: Học Phật cũng y như học văn. Vì học văn chỉ biết làm vănchứ không thể làm Phật được; học toán chỉ biết làm toán chứ không thể học Phật được. Chỉ học Phật thì mới làm Phật được mà thôi. Nhưng nếu họcPhật mà không làm Phật được thì coi như chưa học. Cho nên một người họcPhật đi ra dạy, cái dạy của người học Phật khác hơn người dạy văn, kháchơn người dạy toán. Vì người dạy Phật họ có thiên chất trao truyền lời Phật dạy là giáo lý thâm sâu, vi diệu theo cái hướng giáo hóa độ sinh của Đức Phật, theo các nguyện chúng sanh độ tận phương chứng Bồ đề của Đức Phật, chứ không phải un đúc vào một số kiến thức như chúng ta đã biết. Không phải biết chữ nhiều mà ta giải thoát được. Không phải rằng ngôn ngữ nhiều mà ta giải thoát được. Giải thoát hay không giải thoát nónằm ở chỗ này. Giải thoát và giác ngộ là cái hướng mà ta nhắm tới. Khi nào chúng ta đạt được cái hướng đó thì bấy giờ ta mới trở thành một con người, không phụ công ơn giáo hóa của Đức Phật, không phụ công ơn thầy tổ dìu dắt cho chúng ta, cũng không phụ công ơn của tất cả mọi thiện namtín nữ đã giúp đỡ cho chúng ta trong bước đường tu học hôm nay và ngày mai.

Bấy nhiêu lời tôi mong mỏi anh em Tăng Ni sinh cố gắng giữ gìn thiện chí cao quí của mình để tiếp tục tu học và phục vụ chánh pháp, lợi lạc quần sanh báo đáp công ơn Phật tổ.



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
11/10/2010(Xem: 5954)
Khác hẳn với tất cả các hệ thống triết lý và tôn giáo trên thế giới, Đạo Phật – tự bản chất lẫn hiện tượng – vừa là một hệ thống triết lý mà cũng vừa là một hình trạng tôn giáo hoàn chỉnh với sự kết hợp hài hòa giữa tín điều và tín lý. Giữa cuộc đời, đức Phật là một vị Thầy hóa độ; trong đức tin, đức Phật là một đấng Giác Ngộ chứng tri. Người theo đạo Phật là những người luôn luôn tỉnh thức để làm chủ lấy mình , không giao trọn số phận của mình cho sự định đoạt của một đấng quyền năng tuyệt đối nào cả.
10/10/2010(Xem: 6839)
Trước hết, chúng ta đã ý thức được tầm cỡ có tính cách toàn cầu của một số vấn đề bức xúc đang đối mặt với chúng ta. Như vậy, chúng ta sẽ biết được làm thế nào để huy động trí tuệ và sức mạnh của nhân dân thế giới để giải quyết một cách tốt đẹp những vấn đề đó. Thí dụ các vấn đề chiến tranh và hòa bình, vấn đề xây dựng một nền trật tự kinh tế mới, một nền trật tự đạo đức mới cho thế giới, vấn đề bảo vệ môi trường của chúng ta.
10/10/2010(Xem: 4866)
Giữa cơn lốc biến động xã hội đầy kịch tính của cuối thế kỷ 20, trước sự sụp đổ của con người đối với các vấn đề khủng hoảng sinh thái tâm linh và môi trường, mùa Phật lại trở về như nguồn suối hạnh phúc chảy vào tâm thức mọi người.
10/10/2010(Xem: 7178)
Lẽ thường trong chúng ta, ai ai cũng đều có một cái “cái ngã”, hay “bản ngã”. Không những cái ngã của chính mình mà còn ôm đồm cái bản ngã của gia đình mình, của bằng hữu mình, của tập thể mình, của cộng đồng xã hội mình, của tôn giáo mình, của đất nước mình, và thậm chí cho đến cái bản ngã của chủ nghĩa mình; dù đó là chủ nghĩa hoài nghi, chủ nghĩa duy vật, chủ nghĩa duy tâm, hay chủ nghĩa hiện sinh...
09/10/2010(Xem: 6954)
Sáutu sĩ khổ hạnh quấn trên người những chiếc áo bạc màu bụi đường cùng nhau "tiến sâu vào lãnh thổ của xứ Ma-kiệt-đà"(Magadha) trong thung lũng sông Hằng (PhổDiệu kinh - Lalitavistara). Họ đixuyên ngang các thôn xóm và những cánh đồng xanh mướt. Chung quanh cảnh vật êm ảvà lòng họ thật thanh thản. Họ là những người quyết tâm từ bỏ gia đình để chọnmột lối sống khắc khổ, không màng tiện nghi vật chất mà chỉ biết dồn tất cả nghịlực để đi tìm bản chất của thế gian này và nguyên nhân đưa đến sự hiện hữu củachính họ.
06/10/2010(Xem: 5131)
Sở dĩ tôi nói tới ăn uống ở hàng đầu vì có thể tới 90 phần trăm những bệnh của con người là do ăn uống mà ra. Cơ thể ta luôn luôn giữ một mức độ thăng bằng trước những biến đổi ngoại cảnh. Ngoại cảnh có nóng hay lạnh, cơ thể vẫn giữ ở một mức độ 30 độ bách phân. Ngoại cảnh có làm tim ta đập nhanh hay chậm một chút nhưng sau đó cơ thể vẫn giữ ở mức độ 70 tới 100 nhịp tim mỗi phút. Cũng như vậy đối với huyết áp, số lượng máu, nồng độ của các chất hữu cơ hoặc vô cơ trong cơ thể. Ăn uống chính là đưa các chất ngoại lai vào cơ thể. Nếu đưa vào cho đúng cách, cơ thể sẽ được bồi dưỡng đầy đủ, hoạt động tốt. Nếu không cho đúng cách, hoặc quá nhi
06/10/2010(Xem: 13724)
Ngày nay, khái niệm An cư kiết hạ không còn xa lạ với những người đệ tử Phật. Theo Tứ phần luật san bổ tùy cơ yết ma (q.4) giải thích nghĩa lý an cư như sau: “Thân và tâm tĩnh lặng gọi là an. Quy định thời gian ở một chỗ gọi là cư”.
06/10/2010(Xem: 6520)
Ngày Đức Thế Tôn dạy: “ không bao lâu nữa Ta sẽ nhập Vô Dư Niết Bàn” Ngài A Nan lòng buồn vô hạn, với những nỗi lo hết sức chân tình, lo Phậtđi rồi lấy ai nương tựa, lo Phật không còn ai là người lèo lái con thuyền Phật Pháp, lo cho sự truyền thừa đạo mạch Phật Giáo mai sau.
05/10/2010(Xem: 5269)
Người tham muốn danh vọng, thì suốt đời giong ruổi theo quyền cao, chức trọng, danh thơm tiếng tốt. Họ bằng mọi thủ đoạn để lòn cúi hết chỗ này đến chỗ khác, cố mong được địa vị cao sang. Họ lao tâm, khổ trí, tìm đủ mọi cách để nắm giữ cho được cái danh vọng, hư ảo nhằm đạt được quyền lợi tối cao.
03/10/2010(Xem: 5438)
Người tham muốn ăn uống ngon hợp khẩu vị, thì suốt đời lân la bên cạnh những món ngon vật lạ, quanh quẩn bên những tiệc tùng, tìm khoái khẩu trong những rượu ngon, vị lạ nên phải giết hại nhiều các loài vật để bồi bổ cho mình.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567