Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

6- Thiền quán về Đức Phật Vô Lượng Quang

26/12/201017:37(Xem: 8867)
6- Thiền quán về Đức Phật Vô Lượng Quang

SỐNG AN VUI, CHẾT AN LÀNH

Nguyên tác: Living Well, Dying Well
Tác giả: Kyabje Lama Zopa Rinpoche
tại Theosophical Society, Brisbane, Australia
Chuyển ngữ: Tuệ Uyển-07/10/2010

THIỀN QUÁN VỀ ĐỨC PHẬT VÔ LƯỢNG QUANG

songanvui-1Chư Pháp hữu thân mến,

Khôngcó gì hơn việc chủ động đối với cái chết, và thiền quán về Đức Phật Vô LượngQuang, Đức Phật A Di Đà cho phép chúng ta biến tiến trình này thành sự hoan hỉgiải thoát tự thân. Vì thế đây là một tặngphẩm không thể nghĩ bàn.

Đặcbiệt trước khóa thiền quán về Tỉnh Thức Khi Chết hay Phowa, chúng ta phải tậptrung trên những thực tập để vực dậy lĩnh vực năng lượng của chúng ta. Trong việc tìm kiếm cho những thể trạng tinhthần đáng tin cậy, thói quen gieo rắc những hạt giống sâu sắc nhất và chúng tôiluôn luôn cảm ơn khi những học nhân của tôi đã hoàn thành một trăm nghìn lầntrì tụng một mật ngôn ngắn được ban bố ở đây trước khi khóa thiền quán đầu tiênvề Tỉnh Thức Khi Chết- Phowa.

Hãyhoan hỉ!

Vớiđiều tốt đẹp nhất

LamaOle

www.diamondway-buddhism.org

THIỀN QUÁN VỀ ĐỨCPHẬT VÔ LƯỢNG QUANG

Bốn Tư Tưởng

Chúngta cảm nhận một dòng suối không khí tại chóp mũi và hãy để tư tưởng và càm giácđi qua mà không lượng định.

Rồithì chúng ta tập trung trên bốn tư tưởng căn bản hướng tâm thức đến giải thoátvà giác ngộ:

Chúngta nhận thức cơ hội quý giá trong đời sống này, mà chúng ta có thể làm lợi íchcho vô lượng chúng sinh qua những phương pháp của một Đức Phật. Rất ít người từ trước đến giờ được gặp Con ĐườngKim Cương Thừa và thậm chí ít người hơn có thể sử dụng những phương pháp này.

Chúngta nhớ lại tính vô thường của mọi thứ duyên hợp. Chỉ có không gian trong sáng vô tận của tâmthức (tâm linh quang) là vĩnh viễn và những điều kiện cho để cho việc nhận thứctâm linh quang thì không biết chắc chắn sẽ tồn tại bao lâu.

Chúngta thấu hiểu nhân quả. Rằng những gì sẽxãy ra là tùy thuộc trên chúng ta. Nhữngtâm ý, lời nói và hành động quá khứ trở thành thể trạng hiện tại của chúng tavà ngay bây giờ chúng ta đang gieo rắc những hạt giống cho tương lai của chúngta.

Cuốicùng, chúng ta thấy những lý do cho việc hành động với tâm thức. Giác ngộ là diệu lạc tối thượng vô tận, vàchúng ta không thể làm lợi ích cho những người khác trong khi chính mình vẫn mêmuội hay phiền não.

Dothế bây giờ chúng ta cởi mở cõi lòng đến những ai có thể giáo huấn chúng ta.

Quy Y

Vìsự cát tường của tất cả chúng sinh, chúng con quy y.

TrongPhật Bảo, Đức Phật, tâm thức phát triển trọn vẹn;

TrongPháp Bảo, những lời dạy của ngài là những điều sẽ đưa chúng ta đến đấy (giác ngộ);

TrongTăng Bảo, đoàn thể Tăng già;

Vàđặc biệt là trong Đạo sư, ở đây là Đức Karmapa thứ 16. Ngài đã hòa hiệp sự gia trì, phương pháp và hộtrì và cần thiết cho sự phát triển nhanh chóng của chúng con.

Thực Hành

Phíatrên đỉnh đầu của chúng ta tại một khoảng cách có thể với tới, bây giờ sinh khởimột hoa sen nở tròn đầy. Một dĩa phẳng như mặt trăng ở bên trong. Trên ấy là Đức Phật Vô Lượng Quang (Tạng ngữ:Opagme, Phạn ngữ: Amitabha) thiền tọatrong hướng mặt cùng phương hướng của chúng ta. Ngài lực lưỡng và chiếu sáng như ngọn núi bằng ngọc đỏ trong ánh sáng củanghìn mặt trời. Sự rực rở và hảo tướng củaNgài vượt ngoài mọi sự nhận thức, thể trạng của Ngài là đáp ứng bất cứ nguyện ướckhả dĩ nào.

Biểuhiện trong tính chất của Đức Karmapa và bổn sư của chúng ta, ngài ngồi trong tưthế thiền tọa. Bàn tay phải của ngài cầmmột bình bát màu xanh dương trong vạt áo trên đùi với cam lồ gia hộ vô thượng. Về phía bên phải ngài, phía trên vai phải vànhỏ hơn Đức Phật A Di Đà, là biểu tượng chúng hội từ bi của tất cả chư Phật, vớihình thể bốn tay của con mắt từ bi, Đức Đại Từ Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát (Tạngngữ: Chenrezig, Phạn ngữ: Avalokitesvara). Phía bên trái và ở phía bên trên vai trái làĐức Kim Cương Thủ Bồ Tát (Tạng ngữ: Channa Dorje, Phạn ngữ: Vajrapani), biểu tượng hợp nhất năng lực của tất cả chư Phật (Đại Hùng ĐạiLực Đại Thế Chí Bồ Tát) trong hình thể ánh áng màu xanh dương hòa bình. Ngài cầm trong tay một chiếc linh ngay timngài, và một chày kim cương hướng về phía Đức Phật Vô Lượng Quang. Ba hình thể trung tâm được đoanh vây bởi nhữngđạo sư của tất cả truyền thống Phowa. Trì tụng mật ngôn tối đa như chúng ta có thể, chúng ta thủ hộ sự tỉnh thứccủa chúng ta với cõi Tịnh Độ ở trên, và nguyện ước một cách mạnh mẽ để đi vào trái tim của Đức Phật Đỏ (Phật A DiĐà)

OMAMI DEWA HRI

Giai Đoạn HoànThành

Khichúng ta chấm dứt trì tụng mật ngôn, những đạo sư và cõi Tịnh Độ ở phía trêntan chảy vào trong những bồ tát màu trắng và xanh dương.

Nhữngthứ này hòa tan vào trong Đức Phật Vô Lượng Quang và trở thành một vớiNgài. Rồi thì Ngài trở thành ánh sáng vàtuôn chảy xuống vào trong chúng ta. Giốngnhư nước chảy trong nước, không có sự phân biệt. Thế giới là Tịnh Độ. Biểu hiện mọi nơi, tất cảcó Phật Tính. Chúng ta là hình thể thôngthường, bây giờ không có sự yếu kém hay bệnh tật.

Chúngta quyết tâm giữ gìn sự thông hiểu này trong mọi hoàn cảnh của cuộc đời và nguyệnước rằng những ấn tượng tốt đẹp vừa xuất hiện trở thành bất diệt. Nguyện cho những điều này mang đến cho tất cảchúng sinh niềm an lạc thuần khiết vô tận, của tâm thức hiểu biết ấy.

songanvu-2ĐứcĐạt Lai Lạt Ma vừa truyền pháp Đức Phật A Di Đà tại San Jose ngày 13 tháng Mườinăm 2010. Trong ấy ngoài việc quy y Phật, Pháp, Tăng và Đạo sư là Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14, ngài còn cho lập lại ba lầnbài kệ sau:

Khi không giancòn hiện hữu,

Khi chúng sinhcòn tồn tại

Chúng con nguyệnmãi hiện diện

Để xua tan khổđau cho trần thế

Mậtngôn (Amitabha Mantra):

OMAMITA PABE AMITA HUM

OMAMI DE WA HRI

Hồi Hướng

Trong mãnh đấtthiêng liêng bao quanh bởi những ngọn núi tuyết

Ngài là cội nguồncủa tất cả lợi ích và hạnh phúc

Ô, đấng hùng lựcQuán Thế Âm, Tenzin Gyatso

Xin mãi hiện diệntrên thế gian này cho đến khi chấm dứt luân hồi.

TuệUyển

Ngày 30/10/2010

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
26/05/2021(Xem: 4705)
Lời tựa Những lời Phật dạy phần lớn mang tính phương tiện. Nếu ta chấp chặt từng chữ, từng lời sẽ khó hiểu được hết ý nghĩa thâm sâu bên trong. Chúng ta - những người học Phật ngày nay - rất cần nhận biết đâu là phương tiện, đâu là chân lý trong những lời Phật dạy để không rơi vào cực đoan và thiên kiến. Ngoài ra, người học Phật cũng cần chú tâm vào thực hành để tự mình thực chứng, để tự tìm ra cách đi phù hợp cho riêng mình.
26/05/2021(Xem: 5011)
Phật Đà sau khi thành Chánh Đẳng Chánh Giác nơi cội Bồ Đề, trong thời gian hai mươi mốt ngày, chỉ riêng mình thọ dụng diệu lạc giải thoát, tự riêng cảm niệm lý pháp tịch tịnh vi diệu thậm thâm khó thấy, không phải cảnh giới của tìm cầu, chỉ có bậc trí mới chứng ngộ được; chúng sanh thì bị nhiễm trước thâm sâu ngã kiến, ái lạc phiền não nặng nề, mặc dù họ được nghe Phật Pháp, e rằng cũng không thể rõ thấu, chỉ uổng công vô ích, chi bằng im lặng tịnh trụ tốt hơn. Sau đó Đại Phạm Thiên Vương ân cần cầu thỉnh Phật thuyết pháp, Thế Tôn mới đến Lộc Dã Uyển ngoài thành Ba La Nại Tư, vì năm ông thị giả lúc trước bỏ Phật mà vào trong đây tu khổ hạnh gồm có: A Nhã Kiều Trần Như, Át Bệ, Bạt Đề, Thập Lực Ca Diếp, Ma Nam Câu Lợi, giảng pháp môn Tứ Đế: Khổ, Tập, Diệt, Đạo. Năm vị sau khi nghe pháp thấu hiểu ý nghĩa các lậu đều dứt, chứng thành bậc A La Hán, đây là Tam Bảo đầu tiên mới thiết lập trong thế gian: Đại Thánh Phật Đà là Phật Bảo, Pháp Luân Tứ Đế là Pháp Bảo, Năm A La Hán là Tăng Bảo.
24/05/2021(Xem: 4509)
Đại thừa lấy việc chăn trâu dụ cho việc điều tâm, luyện tâm. Cái tâm đó, nguyên lai thuần hậu, nhưng đã bị đánh lạc mất, để nó chạy rông, buông lung theo sở thích không biết gì đến những hiểm nguy rình rập, cho nên phải tìm lại, và chế ngự cho thuần tính. Cái tâm vọng động xấu xa lần hồi được gạn lọc khỏi các cấu nhiễm trần gian sẽ sáng dần lên và từ chỗ vô minh sẽ đạt tới cảnh giới vòng tròn viên giác. Đó là tượng trưng cho phép tu “tiệm”. Theo phép tu tiệm thì phải tốn rất nhiều công phu mới tiến đến được từng nấc thang giác ngộ. Nhờ công phu, cái vọng tâm lần hồi gạn lọc được trần cấu mà sáng lần lên, cũng như nhờ được chăn dắt mà con trâu hoang đàng lâu ngày trở nên thuần thục dần dần và lớp da đen dơ dáy trắng lần ra.
24/05/2021(Xem: 3739)
Cơn đại dịch quét qua địa cầu gây điêu đứng và làm xáo trộn cả đời sống của nhân loại. Nó tước đi những sinh mệnh, làm đảo lộn nếp sống của từng cá nhân, gia đình, xã hội, quốc gia và quốc tế. Nó không phân biệt, nể trọng hay nhường nhịn ai; không kỳ thị trí thức hay bình dân, giàu hay nghèo, già hay trẻ, nam hay nữ, khỏe mạnh hay yếu đuối. Nó ly cách từng cá nhân, chia lìa những gia đình, khoanh vùng từng xã hội; và như lưỡi hái khổng lồ của tử thần, nó phạt ngang, san bằng tất cả những gì nằm trên lối đi thần tốc của nó.
24/05/2021(Xem: 7552)
Ca khúc phổ nhạc “Đóa Hoa Dâng Đời... Của Ns Phật Giáo Hằng Vang từ bài thơ có tựa là “ Đóa Hoa Ngàn Đời... Của Huyền Lan đăng tuần báo Giác Ngộ đặc biệt Phật Đản số 110 ra ngày 09/05/1998. Sau đó vào năm 2003. Cư Sỹ Tống Hồ Cầm – Phó Tổng Biên Tập Báo Giác Ngộ - tức nhà thơ Tống Anh Nghị - Chủ Nhiệm CLB thơ ca Báo Giác Ngộ, hợp tuyển thơ báo Giác Ngộ nhiều tác giả có tên gọi “Sắc Hương Hoa Bút... Được tuyển chọn vào tập thơ nhiều tác giả nầy...
24/05/2021(Xem: 4742)
Ni sư Thích Nữ Giới Hương có lẽ là vị trụ trì viết nhiều nhất ở hải ngoại. Đó là theo chỗ tôi biết, trong cương vị một nhà báo nhiều thập niên có liên hệ tới nhà chùa và công việc xuất bản. Viết là một nỗ lực gian nan, vì phải đọc nhiều, suy nghĩ nhiều, phân tích nhiều, cân nhắc kỹ rồi mới đưa chữ lên mặt giấy được. Đặc biệt, Ni sư Giới Hương cũng là vị trụ trì viết bằng tiếng Anh nhiều nhất. Tôi vẫn thường thắc mắc, làm thế nào Ni sư có đủ thời giờ để gánh vác Phật sự được đa dạng như thế. Nghĩ như thế, vì tự thấy bản thân mình, nghiệm ra, không có đủ sức đọc và viết nhiều như Ni sư.
18/05/2021(Xem: 6170)
Phật sử ghi lại rằng, vào canh Ba đêm thành đạo, đức Phật đã tìm ra câu giải đáp làm sao thoát khỏi cảnh “Sinh, Già, Bệnh, Chết”, tức thoát khỏi vòng “luân hồi sinh tử”. Câu trả lời là phải đoạn diệt tất cả “lậu hoặc”. Lậu hoặc chính là những dính mắc phiền não, xấu xa, ác độc, tham, sân, si… khiến tâm con người bị ô nhiễm từ đời này sang đời khác, và đời này con người ta vẫn tiếp tục huân tập lậu hoặc, tạo thành nghiệp. “Lậu hoặc” hay “nghiệp” là nguyên tố nhận chìm con người trong luân hồi sanh tử, là nguyên nhân của khổ đau. Muốn chấm dứt khổ đau, chấm dứt luân hồi sanh tử thì phải đoạn diệt tất cả các lậu hoặc, không có con đường nào khác!
18/05/2021(Xem: 5322)
Năm 1959 một sự đe dọa của Tàu Cộng chống lại Đức Đạt Lai Lạt Ma đưa đến sự phản kháng ở Lhasa. Hy vọng tránh được một cuộc tắm máu, ngài đã đi lưu vong và hơn 150,000 Tây Tạng đã đi theo ngài. Bất hạnh thay, hành động này đã không ngăn được sự tắm máu. Một số báo cáo nói rằng khoảng một triệu người Tây Tạng đã chết trong năm đó như một kết quả trực tiếp của việc Tàu Cộng xâm chiếm Tây Tạng.
16/05/2021(Xem: 12113)
Nhận xét rằng, Chúng ta đang đứng trước một khúc quanh gấp của lịch sử nhân loại. Đại dịch Covid-19 đã khép kín mỗi cá nhân trong một không gian chật hẹp, cách ly xã hội, cô lập cá nhân, cách ly cả những người thân yêu. Nó đã tạo ra những khủng hoảng tâm lý trầm trọng trong nhiều thành phần xã hội. Một số đông bị quẫn bức, không thể tự kềm chế, bỗng chốc trở thành con người bạo lực, gieo kinh hoàng cho xã hội. Một số khác, có lẽ là số ít, mà phần lớn trong đó là thanh thiếu niên, khởi đầu cũng chất đầy oán hận trong lòng, nhưng rồi trước ngưỡng sinh tử sự đại, tự mình phấn đấu tự kềm chế, cuối cùng đã khám phá chính mình, trong trình độ nào đó, với những giá trị nhân sinh chỉ có thể tìm thấy trong những cơn tư duy thầm lặng. Giá trị nhân sinh không thể tìm thấy bằng những cao trào kích động của tuổi trẻ. Thế hệ ấy sẽ làm thay đổi hướng đi của lịch sử Đông Tây qua hai nghìn năm kỷ nguyên văn minh Cơ-đốc, khi mà tín đồ có thể liên hệ trực tiếp với đấng Chí Tôn của mình qua mạng truyền
15/05/2021(Xem: 5349)
Phần này bàn về niên hiệu Long Thái và chúa Khánh ở Cao Bằng vào thời LM de Rhodes đến truyền đạo. Đây là lần đầu tiên các danh từ như vậy được dùng trong tiếng Việt qua dạng con chữ La Tinh (chữ quốc ngữ). Các tài liệu tham khảo chính của bài viết này là cuốn "Chúa Thao cổ truyện" và bốn tác phẩm của LM de Rhodes soạn: (a) cuốn Phép Giảng Tám Ngày (viết tắt là PGTN), (b) Bản Báo Cáo vắn tắt về tiếng An Nam hay Đông Kinh (viết tắt là BBC), (c) Lịch Sử Vương Quốc Đàng Ngoài 1627-1646 và (d) tự điển Annam-Lusitan-Latinh (thường gọi là Việt-Bồ-La, viết tắt là VBL) có thể tra tự điển này trên mạng, như trang http://books.google.fr/books?id=uGhkAAAAMAAJ&printsec=frontcover#v=onepage&q&f=false.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]