Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

2- Tính Tự Nhiên Căn Bản Của Tâm Thức

26/12/201017:32(Xem: 8872)
2- Tính Tự Nhiên Căn Bản Của Tâm Thức

SỐNG AN VUI, CHẾT AN LÀNH
Nguyên tác: Living Well, Dying Well
Tác giả: Kyabje Lama Zopa Rinpoche
tại Theosophical Society, Brisbane, Australia
Chuyển ngữ: Tuệ Uyển-07/10/2010

TÍNH BẢN NHIÊN CỦA TÂM THỨC

 

Vìthế, cũng tại thời điểm ấy, hành giả đã hoàn thành năng lực, năng lực toàn hảo,và có thể biểu hiện ngay cả cho một chúng sinh, hàng trăm, hàng nghìn, và nhiềunữa mà hành giả có thể biểu hiện, trong những thân tướng khác nhau, khi có nhucầu cần đến, để hóa độ, để hướng dẫn từ hạnh phúc đến hạnh phúc. Giống như thế, rồi lần lần đưa mọi người đếnchấm dứt sự chết, tái sinh, và toàn bộ những rắc rối và đưa họ đến tâm thức tốithượng, tâm thức hiểu biết hoàn toàn.

Thếcho nên những lợi ích rộng lớn vô cùng như vậy mà chúng ta có thể cung ứng chomỗi chúng sinh, với sự giải thoát hoàn toàn, với tuệ trí, hiểu biết trọn vẹn,mà không có một chút si mê, chướng ngại nào cả, và năng lực toàn hảo để khai mởbất cứ sự hướng dẫn, bất cứ phương pháp nào thích ứng với họ để đem họ vàotrong hạnh phúc, từ hạnh phúc đến hạnh phúc đến hạnh phúc tối thượng. Rồi thì lòng bi mẫn vô hạn cho người khác,lòng bi mẫn không thể lường được cho mỗi chúng sinh, lòng bi mẫn nguyện ước mỗichúng sinh được giải thoát khỏi những rắc rối và nguyên nhân khổ đau và tự mìnhđể làm việc, để tự mình lãnh lấy trách nhiệm ấy, vì thể có lòng từ bi vô hạn,vào lúc ấy lòng từ bi, tâm thức được rèn luyện trong từ bi được hoàn thành,không có gì để phát triển thêm nữa, tuệ trí không có gì để phát triển nữa,không có năng lực nào để phát triển nữa, không có từ bi nào để phát triển nữa. Vì thế, hành giả có thể hóa độ chúng sinh, hướngdẫn mỗi chúng sinh mà không có bất cứ sai sót nhỏ nhiệm nào.

Thếnên điều này là, tất cả chúng ta bây giờ có năng lực ấy, tất cả năng lực để cóthể đem tất cả mọi người đi đến chấm dứt tất cả mọi vấn đề rắc rối cũng nhưnguyên nhân của vấn đề, để đem họ đến hạnh phúc không thể so lường được, thể trạngcủa tâm thức hiểu biết trọn vẹn, tâm thức hiện tại của chúng ta có tất cả nhữngkhả năng ấy, tâm thức chúng ta có tính bản nhiên giác ngộ toàn vẹn. Vì thế, bây giờ, bây giờ thế nào, nói mộtcách chính xác hơn, điều gì thế? Khảnăng hay tính bản nhiên giác ngộ trọn vẹn của tâm thức mà chúng ta đang cótrong sự tương tục tinh thần hiện tại, thế thì cái gì đấy? Bây giờ ở đây chúng ta đi đến tính bản nhiêntối thượng của tâm thức . Điều rõ ràng củatâm thức là có thể làm tất cả những điều này, tức là tâm thức có tất cả nhữngnăng lực này, khả năng này, khả năng không thể ngờ được, khả năng vô hạn, niềmhy vọng hay khả năng mà chúng ta có hay tâm thức hiện tại chúng ta phải cống hiếnlợi lạc rộng lớn đến mọi chúng sinh.

Vìthế, đấy là tâm thức này, mà tính bản nhiên của nó là trong sáng và nhậnthức đốitượng, cũng như tâm thức này. Tâm thứccó toàn bộ năng lực này. Do vậy, bây giờ,tính bản nhiên của tâm thức là gì, đấy là tịnh quang, ánh sáng tinh khiết. Vậy thì tịnh quang là gì? Thế nên, chúng ta suy nghĩ, trước khichúngta đặt nhãn hiệu tâm thức, trước khi chúng ta mệnh danh “tâm thức”, có một lýdo trước khi đấy chúng ta nghĩ. Trướckhi chúng ta đặt cho nhãn hiệu có một lý do trước đấy. Lý do mà chúng ta suy nghĩ, là điều mà làmcho chúng ta quyết định nhãn hiệu đặc thù này, tâm thức, lý do mà làm cho chúngta quyết định nhãn hiệu đặc thù này của tâm thức, lý do ấy là căn bản, lý dotrước khi chúng ta, làm chúng ta quyết định là cái nhãn hiệu, điều được quycho, tâm thức là hiện tượng được quy cho và lý do mà chúng ta nghĩ trướckhichúng ta mệnh danh tâm thức, nó là căn bản được mệnh danh tâm thức, vì thế nólà hai vấn đề khác nhau. Vì thế, tâm thứclà điều không hình thể, không màu sắc, không hình dạng, và là điều mà tính bảnnhiên là trong sáng, nhận thức đối tượng, tủy thuộc trên điều này. Thế thì tâm thức của một người, tư tưởng,nhãn hiệu, chỉ đơn thuần quy cho tâm thức. Do bởi lý do này, hiện tượng đặc thù này, là điều khác biệt với thân thể,mà thể hiện chức năng khác với thân thể, bản chất khác với thân thể, chức năngkhác với thân thể, rồi thì do bởi điều này người ta làm nên nhãn hiệu “tâm thức”. Do thế, tâm thức là một khái niệm, một nhậnthức, hay một ý tưởng.

Tuythế, có một lý do, trước khi chúng ta gọi tâm thức, có một lý do trước điềunày. Rồi thì do sự lệ thuộc trên một lýdo nào đấy sau đó chúng ta mệnh danh tâm thức. Nhưng tâm thức chỉ đơn thuần được mệnh danh, điều gọi là tâm thức chỉđơn thuần được mệnh danh bởi tâm thức, bởi tư tưởng. Do thế, không có tâm thức, không có tâm thứcthật sự tồn tại từ bản chất của nó. Không có tâm thức độc lập hay không có tâmthức tồn tại một cách cố hữu (tâm thức không có tự tính), [không có] một tâm thứctrong ý nghĩa tồn tại một cách cố hữu. Vì thế tâm thức như thế, cách hiện hữu của tâm thức với chúng ta và cáchmà chúng ta tin tưởng như thế, một tâm thức độc lập hay tồn tại một cách cố hữu,là trống rỗng, là hoàn toàn trống rỗng, không tồn tại, hoàn toàn rỗng khôngngay tại đấy.

Nhưvậy tâm thức không hiện hữu nhưng như vậy điều gì hiện hữu? Tâm thức mà xuất hiện tồn tại một cách cố hữulà không tồn tại, hay trống rỗng ngay đấy, nhưng điều hiện hữu là tâm thức làđiều chỉ đơn thuần được mệnh danh bởi chính tư tưởng của con người, phụ thuộctrên những lý do này, tùy thuộc trên căn bản này, hiện tượng đặc thù này mà nólà vô hình tướng, mà tính bản nhiên của nó là trong sáng, nhận thức đối tượng. Do thế, tâm thức này, nó là sự tồn tại biểuhiện chỉ đơn thuần được mệnh danh bởi tâm thức nhưng nó trống rỗng sự tồn tại từbản chất của nó. Vì vậy, đấy chính làtính bản nhiên của tâm thức, đây là tính bản nhiên tối hậu của tâm thức, và đâylà ý nghĩa của ánh sáng tinh khiết hay tịnh quang. Đây chính là tính bản nhiên của tâm thức, đâylà tính bản nhiên căn bản của tâm thức.

Vậythì bây giờ, đây là điều gì, đây là khả năng, đây là tính bản nhiên, đây là gì,đây là khả năng, đây là tính bản nhiên của sự toàn giác, mà tôi đã giải thích vừarồi, đấy là tâm thức giác ngộ trọn vẹn, tuệ trí tròn đầy, tâm thức hiểu biết trọnvẹn, năng lực toàn hảo, lòng bi mẫn vô hạn đối với tất cả chúng sinh. Vì thế, những ai có rắc rối, những ai tâm thứcbị chướng ngại, có lỗi lầm, cũng có lòng bi mẫn đến tất cả chúng sinh. Do vậy, tính bản nhiên tối hậu của tâm thức,tịnh quang, là tính bản nhiên của sự giác ngộ trọn vẹn.

Thếnên, trong tâm thức chúng ta có tính bản nhiên giác ngộ tròn đầy, bởi vì hành độngcủa sự toàn giác đang chiếu soi, đang thâm nhập trong sự tương tục tinh thần củachúng ta và cách ấy, nó làm cho chúng ta phát triển tâm thức của chúng ta haynó làm cho chúng ta tạo nên nguyên nhân của hạnh phúc. Cách này, tâm thức chúng ta trở thành thái độtích cực và cách này có thể sản sinh hạnh phúc. Rồi thì, trong tính bản nhiên tối thượng, trong tính không, trong tính bảnnhiên tối hậu, không có điều khác biệt giữa tính bản nhiên của tâm thức chúngta và tính bản nhiên của sự toàn giác. Do vậy, điều này có liên hệ một cách chính đáng, bất cứ danh xưng khácbiệt mà con người sử dụng, bất cứ tín ngưỡng mà con người theo đuổi, con ngườicó thể liên hệ đến điều này, bất cứ cách nào, trên thế gian, người ta hầu hếttin tưởng rằng có kẻ nào đấy tối thượng, có kẻ nào đấy có năng lực tối cao, cónăng lực tuyệt hảo nhất, kẻ ban bố sự hướng dẫn, có ai đấy, có một chúng sinh tốithượng, có kẻ nào đấy hiểu biết trọn vẹn nhất, có kẻ nào đấy là tối thượng.

Vìvậy, tùy thuộc trên tín ngưỡng khác biệt, do thế có người gọi là Đức Phật, cóngười gọi là Thượng Đế, do vậy một cách thông thường có một niềm tin rằng cóchúng sinh tối cao. Vì thế, mặc dù nókhông rõ ràng, mặc dù không có sự hiểu biết rõ ràng điều gì đấy một cách chínhxác, tất cả những phẩm chất, tuy thế có niểm tin một cách phổ biến, hầu hết mọingười có một niềm tin rằng có ai đấy là tối thượng, do thế điều ấy hiện hữu phùhợp đến niềm tin của con người rồi đưa ra những nhãn hiệu khác nhau. Một số dùng chữ Thượng Đế, Thiên Chúa, một sốgọi là Đức Phật, Đấng Toàn Giác, và v.v… Thế nên điều này, điều này tôi đang diễn tả bây giờ, điều này, một sốngười, ngay cả Thiên Chúa Giáo hay Tin Lành Giáo, đây là vấn đề liên hệ giốngnhư điều này. Rằng Thượng Đế hay Đức Phậthay Tính Toàn Giác đang hoạt động trong tâm thức quý vị. Vì thế tùy theo tín ngưỡng của con người, cóthể liên hệ đến [như thế nào đấy trong danh xưng].

Tuynhiên, trong tính không, trong tính bản nhiên tối hậu, không có gì khác biệt giữatính bản nhiên tối hậu của tâm thức hiện tại của con người, mặc dù tâm thức hiệntại này bị chướng ngại, không thanh tịnh, bị chướng ngại, nhưng trong tính bảnnhiên tối hậu, trong tính không, tính bản nhiên tối hậu của tâm thức conngười,tâm thức mà bây giờ chướng ngại, điều với biểu hiện thời gian, và tính bảnnhiên tối hậu của tâm toàn giác hay hay bất cứ điều gì mà con người gọi,tính bảnnhiên tối hậu của tâm thức thánh thiện của Thượng Đế. Không thể tách rời, không có sự khác biệt, đến tận cùng của tính bản nhiên nềntảng không có sự khác biệt giữa chúng, [giữa] tính bản nhiên thiết yếu của tâmthức hiện tại của con người vốn dĩ mê muội (vọng tâm) và điều hoàn toàn thanh tịnh(chân tâm), cả hai thứ không có gì khác biệt. Có sự khác biệt căn bản, căn bản của tính bản nhiên nền tảng, điều đượchổ trợ và điều hổ trợ. Tính bản nhiên nềntảng phụ thuộc trên tâm thức, nó tồn tại bởi sự lệ thuộc trên tâm thức. Tâm thức là hổ trợ hay lệ thuộc. Vì thế, căn bản, sự hổ trợ, tâm thức,có nhữngsự khác biệt, điều này là bất tịnh và điều kia là hoàn toàn thanh tịnh,nhưng ngoại trừ đấy là sự khác biệtnhưng trong tính bản nhiên thiết yếu, không có sự khác biệt giữa hai thứnày. Vì thế đấy là một, [nên] tâm thứcchúng ta có tất cả những khả năng , khả năng hay tính bản nhiên của một chúngsinh giác ngộ trọn vẹn.

Thứba là, trong tính bản nhiên của tâm thứcđấy là khả năng mà con người có thể chuyển hóa thân thể trở thành một thân thểhoàn toàn thanh tịnh thánh thiện; hình tướng của thân thể hoàn toàn thánh thiệnthanh tịnh, những khía cạnh khác biệt ấy, [là để] hướng dẫn những chúng sinhkhác, để làm lợi ích cho chúng sinh, để đưa họ đến, để khai mở, để hướng dẫnvào con đường [giải thoát giác ngộ], để đưa họ từ hạnh phúc đến hạnh phúc đến hạnhphúc không thể so sánh , sự giác ngộ trọn vẹn. Do thế, vì ba lý do này, nên trong tâm thức chúng ta có khả năng haytính bản nhiên của một chúng sinh giác ngộ tròn đủ.

Vìthế bây giờ, tính bản nhiên trong sáng của tâm thức, điều này thanh tịnh, khôngbị nhiễm ô bởi si mê, tâm thức không thỏa mãn dính mắc, sân hận, kiêu căng,nghi ngờ, tà kiến sai lầm. Tính bảnnhiên của tâm thức không là một với vị kỷ, tự ngã; tính bản nhiên của tâm thứckhông là một với tư tưởng tự kỷ, nó không là một với tự ngã. Điều này, do bởi thế, nó là là thanh tịnh,tính bản nhiên của tâm thức là thanh tịnh, do bởi ý nghĩa đấy, vì nó không là mộtvới những sai lầm của tâm thức, nó không là một với tội lỗi, không là một vớinhững lỗi lầm.

Vìthế, những lỗi lầm đó là tạm thời, giống như thời tiết, bầu trời không là một vớisương mù, những đám mây đó, nó chỉ tạm thời bị che phủ bởi sương mù vàmây. Bởi vì bầu trời không là một vớinhững đám mây, vì qua những nguyên nhân và điều kiện (nhân duyên) nào đấy, nhữngđám mây và sương mù đó đến nhưng những nhân duyên khác chúng sẽ được dọnđi. Bầu trời sẽ trở nên rất trong sáng,có thể cho ánh sáng mặt trời chiếu rọi xuống mặt đất, rồi thì có thể cho conngười nhiều sự sướng vui, nhiều niềm hạnh phúc giải thoát nhiều rắc rối, chứkhông như lúc không có ánh sáng; vì thế có thể ban cho nhiều niềm thú vị, đểgieo trồng cây cối, mùa màng, và v.v… Cũng giống như vậy [những lỗi lầm hay sựâm u của bầu trời] là tạm thời, như thời tiết xấu, [bầu trời] đầy sương mù và lạnhvà những cơn mưa đá và v.v…, điều ấy không phải mãi mãi, nó là tạm thời.

Tươngtự như thế, tấm gương bị bao phủ bởi bụi mờ, nó không phải mãi mãi, nó là tạmthời. Vì thế qua những nhân duyên khác,nó bị lu mờ bởi bụi bám nhưng qua những nhân duyên khác nó có thể được lau sạch. Cũng giống như vậy, tương tự, tâm thức khôngkiên nhẫn, tâm thức vị kỷ, v.v…, chính sựkhông hài lòng, quá mạnh tham dục, tất cả những thứ này, những lỗi lầm mà chúngta đã làm, tất cả những thứ này không phải mãi mãi như vậy, chúng là tạm thời. Do thế qua những nhân duyên khác, chúng vì thếsẽ được dọn dẹp hay chúng sẽ tẩy trừ. Thếđấy, tâm thức này có thể được giải thoát khỏi tất cả những thứ ấy, rằng tâm thứcnày sẽ trở nên thanh tịnh, được tự do khỏi những thứ này, do lệ thuộc trên nhữngnhân duyên khác.

Thếnên, giống như vậy, thí dụ, sửa có khả năng sản xuất bơ, nhưng nó tùy thuộctrên những điều kiện khác, nó tùy thuộc trên điều kiện cần có để làm cho sửa sảnxuất ra bơ. Ở Tây Tạng, người ta đặt sửatrong trong thùng làm bơ, chiếc thùng này làm bằng gỗ hay tre hay bất cứ thứgì, rồi thì chiếc thùng, rồi thì bằng việc lệ thuộc trên điều kiện ấy, rồi thìbằng việc gặp gở điều kiện ấy mới sản xuất ra bơ. Tương tự thế, chiếc chiêng, chiếc chiêng cókhả năng tạo ra âm thinh, nhưng cho đến khi nó gặp điều kiện, có người thỉnhchiếc chiêng một cái bằng cái dùi, đánh vào chiếc chiêng, và cho đến khi điềukiện ấy xãy ra, âm thinh sẽ không phát ra, tiếng chiêng không phát ra. Do thế, khả năng ở đấy, đấy là yêu cầu gặp gởđiều kiện, đùi chiêng, đánh, chạm vào chiếc chiêng. Thế nên giống như vậy, tâm thức này có tất cảnhững khả năng để đạt đến bất cứ hạnh phúc nào, đạt đến bất cứ cấp độ nào của hạnhphúc, để đem đến lợi ích rộng lớn cho những chúng sinh khác…

Tuệ Uyểnchuyển ngữ - 10/10/2010

http://www.lamayeshe.com/index.php?sect=article&id=625&chid=1589


 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
22/06/2020(Xem: 7524)
Truyện tích kể rằng sau khi đi một vòng châu du hoằng Pháp ở các làng mạc, Đức Phật trở về tịnh xá, và giữa chúng Tăng có cuộc thảo luận về trạng thái gồ ghề hay bằng phẳng của các con đường đã trải qua. Đức Phật nói rằng thảo luận về các con đường ấy không thích hợp cho sự giải thoát, đó chỉ là những đoạn đường ở bên ngoài thân tâm. Ngài khuyên chư Tăng nên lưu tâm đến con đường cao thượng là “Bát Chánh Đạo” thuộc giáo lý “Tứ Diệu Đế” và những việc cần phải làm khác để sớm đắc được đạo quả. Những giáo lý căn bản của Đạo Phật đưọc tóm tắt như sau đây:
20/06/2020(Xem: 8039)
Hai sự phân biệt được giới thiệu mà trước đây không được nêu rõ trong tài liệu về lòng bi mẫn, điều này có thể làm rõ những gì đang được nghiên cứu và khuyến khích sự chú ý đến các hình thức bi mẫn đã bị bỏ qua phần lớn. Sự khác biệt đầu tiên là liệu mục tiêu của hành vi bi mẫn là gần (ví dụ, nhìn thấy ai đó ngã xuống, trầy xước đầu gối của mình) hoặc xa (ví dụ, một người không quan sát trực tiếp ai có thể bị thương hiện tại hoặc trong tương lai). Gần là ngay lập tức, khắc phục nếu có thể cho những đau khổ chứng kiến; xa ngăn ngừa tác hại trong tương lai xảy ra. Nhóm phân biệt thứ hai đề cập đến việc lòng bi mẫn là sự thấu cảm, liên quan đến hành động hay là một khát vọng.
19/06/2020(Xem: 13229)
Tặng quà cho 285 hộ nghèo Ấn Độ ở 2 ngôi làng Katorwa-Mucharim (gần chùa Kiều Đàm Di VN- Bodhgaya) địa điểm cách Bồ Đề Đạo Tràng nơi đức Phật thành Đạo 7 cây số. Thành phần quà tặng cho mỗi hộ gồm có: 1 tấm Saree cho phụ nữ, 10 ký Gạo và bột Chapati, đường, muối dầu ăn và bánh ngọt cho trẻ em, kèm với 200 Rupees tiền mặt để mua thêm gạo cho từng hộ GD. (Bên cạnh đó là những phần phụ phí như mướn xe chở hàng, tiền công đóng gói và công thợ khuân vác.)
17/06/2020(Xem: 9387)
Tuy được duyên may tham dự khoá tu học Phật Pháp Úc Châu kỳ 19 tổ chức tại thủ đô Canberra và Ngài Ôn Hội Chủ thường xuyên hiện diện với hội chúng, nhưng tôi chưa bao giờ có dịp đảnh lễ Ngài dù đã nhiều lần làm thơ xưng tán hoặc bày tỏ cảm nghĩ của mình khi đọc được tác phẩm được in thành sách hoặc trên các trang mạng Phật Giáo .
17/06/2020(Xem: 5967)
Thật là một điều trùng hợp khi vừa đọc xong bài viết của Ôn Hội Chủ HT Thích Bảo Lạc được đăng tải trên trangnhaquangduc vào ngày 05/04/2020 là lúc tôi đang ôn lại hết những gì về Duy Thức Học và Vi Diệu Pháp vì thật ra khi đọc kinh sách của Nam Tông và Bắc Tông tôi đã tự nhận thấy Chữ Tâm luôn là đề tài mà người tu học phải tự điều phục và do đó lần nữa Chữ Tâm đã được gặp lại trong pháp môn này nhưng thêm vào chút thâm thuý sâu sắc khi được khảo sát qua ba tiến trình ( THỂ- TƯỚNG - DỤNG ) mà biểu hiện là Ý , THỨC , TÂM .
16/06/2020(Xem: 6701)
Tiến sĩ B. Alan Wallace, học giả, cư sĩ diễn thuyết, tuyên dương diệu pháp Như Lai, đã viết và dịch nhiều sách Phật giáo Tây Tạng. Ông không ngừng tìm kiếm các phương thức mới để hòa nhập việc tu tập Phật pháp với khoa học hiện đại và hậu thuẫn cho các nghiên cứu về tâm thức. Ông đã thực hành Phật giáo từ thập niên 1970, đã giảng dạy lý thuyết và hướng dẫn tu tập thiền định Phật giáo trên toàn thế giới từ năm 1076. Ông đã dành 14 năm sống trong chốn thiền môn với cuơng vị một tăng sĩ Phật giáo Tây Tạng và phúc duyên được Đức Đạt Lai Lạt Ma thế độ xuất gia.
16/06/2020(Xem: 5879)
Dharamshala, ngày 9/6/2020: Ngài Khensur Geshe Tashi Tesering, một vị tăng sĩ Phật giáo Tây Tạng nổi tiếng cư trú tại Queensland, Australia, cựu trụ trì Tu viện Gyudmey, nằm trong Danh sách Danh dự Sinh nhật Nữ hoàng 2020 vào hôm thứ Hai, ngày 8 tháng 6 năm 2020.
13/06/2020(Xem: 9238)
Đã sanh làm kiếp con người, có ai mà không khổ? Cái khổ nó theo mình từ nhỏ đến khi khôn lớn, và sẽ khổ hoài cho tới khi trút hơi thở cuối cùng. Nhưng chết rồi cũng chưa hết khổ. Vì tâm thức của con ngườisẽ bị nghiệp lực dẫn đi tái sanh. Nếu đời sốnghiện tại, con người biết tu hành, làm việc thiện lành tránh việc hung ác, thường tạo nhiều phước báo, thì khi chết được tái sanh làm người. Ngược lại sống ở đời với tâm địa ác độc, xấu xa, luôn gây phiền não khổ đau cho người khác,thì sau khi chết bị đọa vào một trong ba đường khổ: súc sanh, ngạ quỷ hay địa ngục. Và cứ thế hết đời này qua đời khác, chúng sanh cứ như vậy chịu trôi lăn, lặn ngụp, đắm chìm trong bể khổ đường mê, không bao giờ thoát khỏi vòng luân hồi sanh tử.
13/06/2020(Xem: 6418)
Đức Đạt Lai Lạt Ma, vị lãnh đạo tinh thần dân tộc Tây Tạng nói rằng: “Âm nhạc có khả năng tiếp cận nhiều người hơn”. (‘Music has the potential to reach many more people,’) Đức Đạt Lai Lạt Ma, người gửi thông điệp về từ bi, hòa hợp và hòa bình với nụ cười đầy hỷ xả, đã cuốn hút hàng triệu Phật giáo đồ toàn cầu, đang phát hành một Album Giáo lý và Chân ngôn mật chú hòa âm phổ nhạc để đánh dấu kỷ niệm sinh nhật lần thứ 85 của Ngài vào tháng tới.
13/06/2020(Xem: 7801)
Ngay từ những ngày đầu khi mới có lệnh cách giản xã hội (social distancing) TT Trụ trì Thích Nguyên Tạng đã Việt dịch tất cả những tin tức liên quan đến đại dịch đang xảy ra tại Úc và trên thế giới nhiều lần trong ngày cho tất cả những Phật tử trong và ngoài nước trên Viber Đại Gia Đình Quảng Đức và tôi nhờ duyên may nên cũng có tên trong danh sách này . Nhưng vài ngày sau là Thầy Trụ trì đã bắt đầu livestream cho các buổi công phu khuya bắt đầu từ 5:30-6:30 a m mỗi ngày và buổi chiều tiếng đại Hồng chung như chuẩn bị cho những giờ công phu tịnh độ tối của các chùa Đại thừa khi chưa có đại dịch . Rồi sau đó là các buổi sám hối Hồng danh cũng được livestream vào tối ngày 14 âm lịch và tối 29, hay 30 âm lịch mỗi tháng . Thành tâm ngưỡng phục oai nghi của các Ngài , không có mặt Phật tử mà buổi lễ nào cũng trang nghiêm vô cùng , mãi đến 2/6 /2020 số người lạy sám hối được tăng thêm dần dần từ 5 đến 20
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]