Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

1- Tâm Là Gì?

26/12/201017:30(Xem: 6222)
1- Tâm Là Gì?

SỐNG AN VUI, CHẾT AN LÀNH
Nguyên tác: Living Well, Dying Well
Tác giả: Kyabje Lama Zopa Rinpoche
tại Theosophical Society, Brisbane, Australia
Chuyển ngữ: Tuệ Uyển-07/10/2010

TÂM LÀ GÌ?

 

LamaZopa Rinpoche đã thuyết giảng đề tài này tại Brisbane, Úc Đại Lợi vào năm 1991.

Trongbài thuyết giảng này, Rinpoche đã nói về mục tiêu của đời sống và phát triểnthái độ đúng đắn đối với sự chết.

Cầunguyện mở đầu!

Tôirất vui mừng được gặp gởi tất cả quý vị và như chúng ta chịu trách nhiệm đểmang hạnh phúc đến mọi người khác, như mỗi chúng ta chịu trách nhiệm để cống hiếnhạnh phúc, nguyên nhân hạnh phúc cho ngườikhác, hạnh phúc của người khác tùy thuộc trên chúng ta, hạnh phúc của chúng tatùy thuộc trên những người khác, vì vậy đấy là những gì tôi đang nói đến.

Vậythì, chủ đề chính mà chúng ta sẽ quán chiếu hay những gì tôi cố gắng để thựchành một ít và đôi khi tôi không lười biếng, khi tôi có thể nhớ, tôi chia sẻ sựthấu hiểu của tôi hay căn bản mà tôi đã học một ít, mà đấy chỉ là một ít từgiáo huấn của Đấng Toàn Giác, những lời dạy của Đức Phật. Do vậy, nếu có điều gì thực tiển, nếu có điềugì lợi ích mà quý vị tìm thấy qua sự phân tích sau đó hãy áp dụng đến đời sốngcủa quý vị.

Dovậy, trước hết tôi nghĩ có lẽ nên đề cập một ít về vấn đề tâm là gì. Không có tâm thức, nếu thân thể không có tâmthức, thế thì không có cách nào mà nó trãi nghiệm hạnh phúc. Vì thế, cóthân thể và tâm thức. Thân thể có thân thô, thân vi tế, và thân cựckỳ vi tế, như thế là có ba thân. Thânthô phù thì có thể dễ dàng để thấu hiểu và rồi thân vi tế, căn bản của chất lỏng,căn bản của thân thể. Sau đó, có thân cựckỳ vi tế, mà đấy là cổ xe của tâm thức cực kỳ vi tế. Do vậy, điều ấy làbất biến, thân thể cực kỳvi tế bất biến bên trong thân thể tại quả tim, bằng kích thước của hai lồng ngực,trong trung tâm. Rồi thì có, xa như tâmthức , có tâm thức thô, tâm thức vi tế, và tâm thức cực kỳ vi tế, thế làcũngcó ba, tối đa là tâm thức có ba loại như thế này. Thế thì tâm thức bất biến cực kỳ vi tế ở nơinào? Đấy cũng là tại quả tim, bằng kíchthước của hai lồng ngực, trong trung tâm, tại quả tim.

Vàbây giờ, tâm là gì? Hiện tượng, mà nókhông hình tướng, không màu sắc, không hình thể, không vật chất, mà tự nhiên làtrong sáng, nhận thức những đối tượng, như tấm gương có thể phản chiếu, tấmgương có thể cho sự phản chiếu trong sáng mọi thứ, của bất cứ thứ gì ở trướcnó. Vậy thì giống như thế, tâm thức cóthể làm cho đối tượng sáng sủa, đến tâm thức ấy, đối tượng có thể được xuất hiệnrõ ràng, bất cứ đối tượng nào, hiện tượng, đến với tâm thức, đối tượng được xuấthiện một cách rõ ràng. Vì vậy, sự nhận thức đối tượng là như thế này. Và đây là sự quy ước thông thường, có hai đặctính tự nhiên của tâm thức, một là đặc tính quy ước (tục đế) và một là đặc tínhbản thể (chân đế). Do vậy sự diễn tả nàylà đặc tính quy ước.

Bâygiờ, tâm thức tồn tại bằng sự tùy thuộc trên nguyên nhân và điều kiện (nhânduyên). Tâm thức hôm nay hiện hữu do bởitâm thức hôm qua. Tâm thức hôm qua tồn tạido bởi tâm thức ngày trước nữa, giống như thế, nó đi ngược lại. Tâm thức hôm nay được làm ra bởi tâm thức hômqua và tâm thức hôm nay sẽ làm nên kết quả của tâm thức ngày mai. Giốngnhư thế, tâm thức của giây phút này đượctạo nên bởi tâm thức của giây phút trước và tâm thức hiện tại làm nên trể hơn, tâm thức của giây phút tới. Vì thế đấy là duyên khởi, tâm thứclà duyênsinh mỗi lần như thế.

Vìvậy, bất cứ tư tưởng nào cũng có sự lệ thuộc trên đối tượng, vì bởi có sự hiệnhữu, đối tượng sau đó có một tư tưởng của đối tượng ấy. Khi đối tượng được nhận thức sau đó có một tưtưởng, vì thế tư tưởng là một sự duyên sinh lệ thuộc trên nguyên nhân và điềukiện (nhân duyên). Do thế, đấy là việcchúng ta có thể nhớ nghĩ như thế nào, bởi vì có một sự tương tục của tư tưởng từngày hôm qua, hôm nay, vì vậy chúng ta có thể nhớ lại những gì chúng đã làm hômqua, những gì chúng ta đã thấy hôm qua và những gì chúng ta đã làm năm trước,và v.v… Do vậy, tương tự thế, qua tiếntrình, trước tiên cả, chúng ta phải kiểm soát, chúng ta phải phân tích, chúngta phải học hỏi, chúng ta phải khám phá qua những kinh nghiệm của chúng ta, đấylà khi tâm ý xãy ra trong sự thụ tinh trứng, chúng ta phải phân tích có phải nóđến từ [nơi nào], chúng ta phải nghiên cứu, chúng ta phải phân tích có phải tâmý đến từ sự tương tục trước đấy của tâm ý hay không . Vì thế chúng ta phải nghiên cứu, chúng ta phảiphân tích, chúng ta phải khám phá với kinh nghiệm của chính chúng ta, bằng việcsử dụng tuệ trí của chính chúng ta, bằng sự phát triển tuệ trí của chính chúngta, rồi thì chúng ta phải khám phá qua kinh nghiệm của chính chúng ta có phảicó một tâm ý khác mà nó là sự tương tục của tâm ý ấy, tâm ý đã bắt đầu trong sựthụ thai, trong tử cung của bà mẹ. Nó phảiđược chứng tỏ với tuệ trí của chính chúng ta. Vì thế dù cách nào cũng qua sự phân tích.

Tuynhiên, qua thiền quán, nhiều người, nhiều người phương Tây thiền quán, nhiềusinh viên thiền quán cũng như những ai có tâm thức thật trong sáng, những ai cóít chướng ngại, những ai có một tâm thức trong sáng hơn thế thì họ có thể nhớ lạikhi nào họ ra khỏi tử cung của bà mẹ, một số có thể nhớ lại lúc họ đang ra khỏitử cung của bà mẹ, họ có thể nhớ lại những lúc ấy. Một số có thể nhớ lại. Vì thế, qua thiền quán, điều ấy không thể khôngcó thiền quán. Qua thiền quán họ có thểnhớ lại đời sống trước đời sống này, khi họ phân tích, khi họ quán chiếu lại,qua thiền quán khi họ trở lại tử cung rồi thì, trở lại chính ngay thời điểm tâmý bắt đầu, tâm ý đã phối hợp với sự thụ tinh,chính thời điểm đầu tiên đã phối hợpvới sự thụ thai. Vì thế, trước giây phútấy khi họ phân tích qua thiền quán, một số người có những hình ảnh rất rõ ràngtrong những ký ức của những đời sống quá khứ. Một số đã sống ở Tây Tạng có thể nhớ lại ngay cả nhà bếp, nhà bếp Tây Tạng,có thể nhớ lại nhiều thứ ngay cả bên trong phòng.

Tuynhiên như đề cập qua thôi miên, một cảm giác rất mạnh mẽ của ngày hôm qua cũngcó thể được nhớ lại. Nhưng rồi thì quaphát triển tâm thức trong thiền quán, khi chúng ta tiếp cận tâm thức tại một cấpđộ nào đó của con đường [tu tập], sau khi đạt đến sự thiền quán gọi là tịchtĩnh bất biến hay nhất tâm bất loạn, mà chúng ta có thể tập trung [đại định]hàng năm, hàng vô lượng kiếp, tùy theo hành giả mong ước, hành giả có thể tậptrung trên một đối tượng mà không có một chướng ngại nào, không có sự xao lãngnào, không có gì phá vở sự tập trung [đại định], mà bất cứ nơi đâu hành giả tậptrung tâm thức mình, bất cứ nơi nào hành giả đặt tâm thức của chính mình có thểtrụ trên đối tượng ấy như một ngọn núi, giống như đặt một ngọn núi ở đấy, và vìthế có thể trụ tâm trên đối tượng ấy. Điềuấy được phối hợp với một sự tập trung nhất điểm này phối hợp với trạng thái đạiđịnh, thân thể và tâm thức được tịnh hóa cực kỳ vi tế, trạng thái đại định, đạilạc hay niềm hạnh phúc chân thật, khi được phối hợp với điều ấy, có thể làm chosự tập trung đại định này [hiện hữu] với kinh nghiệm như thế.

Tuynhiên, sau khi đạt đến trình độ nhất tâm bất loạn thì chúng ta có thể có nhữngnăng lực có thể thấy được quá khứ và tương lai, vì thế trong những hành giả nhưthế có thể nhớ lại những thời gian như thế, rồi thì cao hơn, khi hành giả thựcsự tác chứng những lộ trình cao hơn và cao hơn thế thì họ có thể thấy xa hơn vềquá khứ, xa hơn về tương lai. Rồi thìcũng bằng sự thực hành mật tông tantra, những chân ngôn bí mật, có một phươngpháp thực hành gọi là Sáu Du Già của Naropa. Đấy là một phương pháp để thực sự chấm dứt tâm thức thô, tư tưởng thô vàthực sự tác chứng tâm thức cực kỳ vi tế. Rồi thì có thể sử dụng tâm thức cực kỳ vi tế này để thiền quán, để thânchứng con đường tu tập để có thể thực thi những lợi ích rộng lớn cho nhữngchúng sinh khác, cho những người khác. Vì thế, hành giả, thiền giả, người thực chứng điều này, tâm thức vi tế;đặc biệt sau khi đạt đến sự thực chứng này, có thể có những năng lực, khả năngtâm linh này. Có thể nhớ lại hàng nghìnđời sống trước đây, hàng nghìn năm trướcđây, nơi mà họ đã hiện diện trên thế giới này, xứ sở nào. Giống như thế, quý vị, tự mình là đệ tử của mộttrong những thánh giả hay đại sĩ nào đã xãy ra trên trái đất này hàng nghìn nămtrước. Vì thế, hành giả ấy có thể nhớ lạinhững đại hành giả như Milarepa, những người thành tựu toàn giác trong một đời,trong một vài năm, trong một thời gian ngắn của thời đại mạt pháp.

Mộtsố hành giả thực sự thực chứng điều này, cũng có những hành giả thực sự tác chứngnhững điều này qua sự thực hành mật tông tantra, con đường tu tập, sau đó hànhgiả ấy có thể nhớ lại rằng con người ấy đã từng hiện diện trong thời gian ấytrong một nơi như thế như thế. Những ngườiấy có thể thấy tương lai và quá khứ. Vàđiều này là chỉ nói về tâm thức, những khả năng của tâm thức có thể đạt đến sựphát triển cao hơn và cao hơn, sau đó có thể thấy nhiều hiện tượng khác, là nhữngthứ không thể thấy được trước khi tâm thức phát triển [đến trình độ này]. Khi tâm thức phát triển cao siêu hơn, thâmdiệu hơn thì có thể thấy nhiều hơn nữa về quá khứ và trong tương lai, vô số nhữnghiện tượng khác nữa, mà tâm thức phàm phu hiện tại không thể thấy được.

Tươngtự thế, trước một người đi đến một trường đại học, người ấy không thể hiểu biếttất cả những môn học, những hiện tượng, nhưng bằng việc đi đến trường đại học,nghiên cứu học hỏi sau đó người ấy mới có thể hiểu biết, thấy biết tất cả nhữngmôn học khác, tất cả những hiện tượng khác. Giống như vậy, qua thiền quán , giống như điều này dần dần sau đó hànhgiả phát triển hoàn toàn tâm thức trong tuệ trí, trong sự thông hiểu rồi thìhành giả có thể thấy, có thể thấy một cách trực tiếp tất cả những sự hiện hữu,tất cả những hiện tượng, mỗi sự tồn tại đơn lẻ, trong quá khứ, hiện tại vàtương lai. Mọi thứ đã tồn tại trong quákhứ và sẽ xãy ra trong tương lai cùng liên hệ đến tất cả những hiện tượng đanghiện diện bây giờ.

Tuythế, vào thời điểm khi tâm thức đã hoàn toàn phát triển, sự thông hiểu hoàntoàn phát triển, vào thời điểm ấy tâm thức hành giả có thể thấy tâm tưởng của mọingười, mọi chúng sinh, trong mỗi giây; hành giả có thể thấy một cách trực tiếp, có thể thấy mộtcách toàn hảo, qua thời gian ấy, sẽkhông có sự cản trở, tâm thức hiện hữu ở khắp mọi nơi. Tại thời điểm tâm thức chúng ta bao trùm chỉthân thể này, thì chúng ta không thể bao trùm tâm thức chúng ta khác hơn thânthể này, tâm thức chúng ta không thể bao trùm tất cả những đối tượng. Khác hơn thân thể này, tâm thức chúng takhông thể bao hàm. Vì thế có nhiều giớihạn, khi hành giả ở đây, trong khi chúng ta ở đây, tâm thức chúng ta không thểđồng thời ở tại nhà, không thể ở tại bờ biển, hay không thể ở những xứ sở khácnơi chúng ta ao ước. Tâm thức chúng takhông thể ở Hy Lạp cùng một lúc, trong khi chúng ta ở đây Úc Đại Lợi cùng mộtlúc, Hoa Kỳ hay Ba Li của Indonesia, bãi biển Ba Li. Tâm thức chúng ta không thể ở mọi nơi màchúng ta mong ước. Vì thế nhằm để ở đấy,thân thể phải đi đến đấy, thân thể phải tiếp nhận rắc rối, thân thể phải đi đếnđấy.

Cónhiều giới hạn trong năng lực, có nhiều cản trở, có nhiều giới hạn trong khảnăng. Vì thể khi thành công trên con đườngtu tập, không có giới hạn, không có chướng ngại. Vào lúc ấy không có thân thô, không có tâmthô, chỉ có thân vi tế và tâm vi tế. Dovậy, không có cản trở, không có chướng ngại, nên tâm thức có thể thâm nhập khắpmọi thứ. Tâm thức có thể thấy mọi thứ vàtâm thức có thể thâm nhập mọi hiện tượng. Như tâm thức của thân thể chúng ta có thể thâm nhập ngay hiện tại thânthể chúng ta, và vì thế, tâm thức có thể thấy mọi thứ và nó thâm nhập mọi thứngay lúc ấy. Do thế, vào thời điểm ấysau khi chúng ta có thể tất cả chúng sinh, tất cả sinh vật, những đặc tính củachúng, những trình độ khác nhau của tâm thức, mọi thứ. Vì thế sau đó hành giả có thể thấy mỗi mộtphương pháp để đưa họ, để giải thoát họ khỏi rắc rối, làm cho họ và để đưa họvào trong hạnh phúc, từ hạnh phúc đến hạnh phúc, đến hạnh phúc tối hậu, hạnhphúc tối thượng không gì có thể so sánh, thể trạng của tâm toàn giác, tâm thứchiểu biết một cách trọn vẹn. Hành giả cóthể đưa chúng sinh như thế này từ hạnh phúc đến hạnh phúc đến hạnh phúc tối thượng. Vì thế, hành giả có thể thấy mỗimột phương pháp thích hợp với tâm thức của họ, vì thế tất cả sự hướng dẫn khácbiệt gì nên được ban bố, hành giả có thể thấy một cách chính xác.

Vìthế, cũng tại thời điểm ấy, hành giả đã hoàn thành năng lực, năng lực toàn hảo,và có thể biểu hiện…

TuệUyển chuyển ngữ 19/10/2010

http://www.lamayeshe.com/index.php?sect=article&id=625&chid=1584

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
01/08/2012(Xem: 4480)
Tam Bảo (Phật, Pháp, Tăng) như ba viên ngọc quý không gì có thể so sánh được và Tam Bảo có 6 ý nghĩa không thể nghĩ bàn: _ Một là nghĩa hy hữu, tức là hiếm có, khó được như vàng, bạc, kim cương, ngọc quý… người nghèo khó có được. Phật-Pháp-Tăng cũng vậy! Dù người ở sát bên chùa nhưng thiếu phước cũng khó gặp, không thể thân cận với Tam Bảo nên gọi là hy hữu. _ Hai là nghĩa ly cấu, tức lìa xa những việc xấu ác, hay
30/07/2012(Xem: 12541)
Nói về Giáo, trong Kinh Trung A Hàm (Bahuvedaniya-Majjhima Nikaya) số 57, đức Phật đã chỉ dẫn Mười loại Hạnh phúc Tối thượng, sắp xếp thứ tự do kết quả tu chứng, trong đó có: Đoạn thứ 6. “ Này Anandà. Nơi đây vượt hẳn lên khỏi mọi tri giác và hình thể (Sắc), không còn phản ứng của giác quan, hoàn toàn không chú tâm đến mọi sự khác nhau của tri giác ….” Đoạn thứ 10. “Nơi đây vượt hẳn lên khỏi cảnh giới Phi Tưởng, Phi Phi Tưởng (Chẳng Phải Tưởng, Chẳng Phải Chẳng Có Tưởng), đạt đến sự chấm dứt mọi Tri giác và Cảm giác (Sãnnavedayita Niroda).”
27/07/2012(Xem: 7534)
Với Đức Phật, vì tình thương vô hạn đối với chúng sanh nên Ngài đã hy sinh tất cả để tìm cầu Thánh đạo. Sau khi đã ngộ đạo, Ngài lại chuyển vận bánh xe pháp...
25/07/2012(Xem: 6999)
Khóa Tu Học Phật Pháp Âu Châu Kỳ 24 được tổ chức vào ngày 26.07 đến ngày 05.08.2012... HT Thích Minh Tâm
25/07/2012(Xem: 7544)
Không phải chúng ta hành thiền để được người khác mến phục, kính nể nhưng để đóng góp vào sự bình an của thế giới. Chúng ta làm theo những lời dạy của Ðức Phật...
25/07/2012(Xem: 4609)
1-Chúng ta hãy đem yêu thương vào nơi oán thù để chuyển hóa nỗi khổ niềm đau thành an vui hạnh phúc. 2-Chúng ta hãy đem tha thứ vào nơi lăng nhục để mọi oan khiên được dứt sạch theo thời gian. 3-Chúng ta đem tình thương vào nơi tranh chấp để hóa giải mọi xung đột hiềm khích phải quấy, tốt xấu, đúng sai trở thành hòa hợp. 4-Chúng ta đem ánh sánh chân lý trí tuệ từ bi vào nơi tăm tối u mê, lầm lỗi để chuyển hóa thành trong sáng hiện thực. 5-Chúng ta đem an ủi sẻ chia giúp đỡ vào nơi không có tình yêu thương chân thật để được bao dung và độ lượng. 6-Khi chúng ta biết tha thứ mọi lỗi lầm của người khác, tự nghiêm khắc với chính mình và ta chịu thiệt thòi một chút thì cuộc sống sẽ trở nên tốt đẹp hơn.
24/07/2012(Xem: 9010)
Trong khi Đức Đạt Lai Lạt Ma và tôi điểm qua nhiều chủ đề trong tiến trình thảo luận của chúng tôi, vẫn còn một vấn đề đơn độc được đan kết lại suốt tất cả những thảo luận của chúng tôi, câu hỏi của việc làm thế nào tìm thấy hạnh phúc trong thế giới phiền não của chúng ta. Vì vậy, trong việc nhìn vào những nhân tố đa dạng ngầm phá hạnh phúc nhân loại suốt chiều dài của lịch sử, những nhân tố đã tạo nên khổ đau và khốn cùng trong một mức độ rộng lớn, không nghi ngờ gì nữa, chính là bạo động ở trong những nhân tố chủ yếu.
23/07/2012(Xem: 5634)
Mùa An Cư Kiết Hạ năm nay được tổ chức tại Chùa Bát Nhã - Văn Phòng Của GHPGVNTNHK, Hòa Thượng Thích Nguyên Trí phát tâm bảo trợ. Cũng như những năm trước, đông đảo Chư Tôn Đức Tăng Ni vân tập về trường hạ An Cư tạo thành quang cảnh nhộn nhịp như đàn chim khắp bốn phương bay về tổ ấm. Người mang xách, kẻ kéo vali quay quần bên nhau thăm hỏi, vui mừng như ngày hội. Từ Ôn Thiền Chủ, Ban Chức Sự trường hạ cho đến quí Thầy Cô, Sa Di khu ô đuổi quạ, đều hiện rõ nét mặt vui tươi, hân hoan, chào đón bằng ánh mắt niềm nở, nụ cười tự nhiên, thanh thản. Nhiều chiếc xe đổ người trước cổng tam quan, ai cũng nhìn thấy câu biển ngữ nền vàng chữ đỏ...
22/07/2012(Xem: 4797)
1-Người Phật tử chân chính luôn cung kính tưởng nhớ Phật, luôn thương yêu kính mến ông bà cha mẹ, vui vẻ thuận thảo với anh chị em và hay giúp người cứu vật. 2-Khi ta oán giận một ai đó, giống như mình đang ghim từng mũi kim vào thân này. Hãy học cách khoang dung và độ lượng để tâm ta được an tịnh trong từng phút giây.
20/07/2012(Xem: 10246)
Đức Phật dạy Bốn Thánh Đế này cho chúng ta để đắc chứng Niết-bàn, Thánh Đế Thứ Ba, chấm dứt hoàn toàn tái sanh và do đó cũng chấm dứt luôn Khổ.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567