Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chương IV: Luật Nhân Quả

08/12/201016:45(Xem: 10662)
Chương IV: Luật Nhân Quả

 

TẤM LÒNG RỘNG MỞ
LUYỆN TẬP LÒNG TỪ BI TRONG ĐỜI SỐNG HÀNG NGÀY

Tác giả Dalai Lama - Lê Tuyên biên dịch - Lê Gia hiệu đính
Dịch từ nguyên tác tiếng Anh: An Open Heart Practicing Compassion in EverydayLife

CHƯƠNG IV
LUẬT NHÂN QUẢ
(KARMA)


Mục đích cơ bản và chủyếu của chúng ta trong việc luyện tập Phật giáo là tiến tới sự giác ngộ hoàntoàn và có được trạng thái thông suốt của một Đ ức Phật. Phương tiện truyền bámà chúng ta cần phải có là một thể xác con người có một tâm hồn lành mạnh.

Hầu hết chúng ta đềusống một đời sống được gọi là tương đối lành mạnh. Thật ra , theo kinh Phật,đờisống con người rất phi thường và kỳ diệu. Nó là kết quả của sự hợp nhất vĩ đạicủa nhiều đức tính được tích luỹ trong chúng ta qua vô số sinh mạng . Mỗi conngười đều dành nhiều nổ lực cho việc đạt được trạng thái này. Tại sao đời sốngcon người lại có giá trị đến như vậy? Bởi vì đời sống cho ta cơ hội tốt nhất đểhoàn thiện tâm hồn: Việc tìm kiếm theo đuổi niềm hạnh phúc của bản thân. Đ ộngvật không có khả năng theo đuổi những phẩm chất đạo đức như con người. Chúng lànạn nhân của sự ngu dốt của chính bản thân chúng. Vì vậy chúng ta nên quý trọngđời sống quý giá của loài người và đồng thời phải làm tất cả những gì chúng tacó thể để đảm bảo được rằng chúng ta sẽ được tái sinh làm con người ở kiếp sau.Dù rằng chúng ta luôn khao khát đạt được sự giác ngộ hoàn toàn, chúng ta biếtrằng con đường dẫn tới Cõi Phật(Buddhahood) là một con đường rất dài mà nếuchúng ta muốn vượt qua được thì chúng ta phải có một sự chuẩn bị đầy đủ.

Như chúng ta đã thấy, đểđảm bảo được rằng kiếp sau được tái sinh làm loài người với đầy đủ khả năngtheo đuổi việc rèn luyện tâm hồn thì chúng ta phải đi theo một đường lối đạođức hợp với luân thường đạo lý. Theo học thuyết của Đ ức P hật, điều này đòihỏi chúng ta phải tránh 10 hành vi phi đạo đức. Những đau khỏâ do từng hành vinày gây ra sẽ xuất hiện ở nhiều mức độ khác nhau. Để tự đưa ra cho bản thânmình nhiều lý do mà chúng ta nên tránh những hành vi phi đạo đức đó, chúng taphải hiểu rõ những nguyên tắc của luật nhân quả.

"Nhân quả" cónghĩa là "Hành vi", ám chỉ một hành vi nào đó mà chúng ta tham giavàovà những tác động ảnh hưởng của hành vi đó. Khi chúng ta nói về hành vi giếtngười, chính hành vi đó sẽ cướp đi sinh mạng của một người. Những điều liênquan đền hành vi này là những đau khổ mà nó gây ra cho nạn nhân cũng như nhữngngười yêu thương dựa dẫm vào nạn nhân đó. Nhân quả của hành vi này cũng bao gồmcảnhững ảnh hưởng tác động lên kẻ giết người. Không phải chỉ vậy thôi đâu! Thậtra, mầm mống của một hành vi phi đạo đức sẽ gia tăng phát triển theo thời gian,vì vậy nên sự thiếu lòng thương hại nơi kẻ sát nhân tàn nhẩn đó được bắt nguồntừ những quãng đời trong quá khứ của hắn, khiến hắn xem nhẹ mạng sống của mọingười như mạng sống của loài vật và côn trùng.

Một tên sát nhân khôngchắc là sẽ được tái sinh làm loài người ở kiếp sau. Chính hoàn cảnh dẫn đếnviệc giết người sẽ quyết định mức độ khốc liệt của những hậu quả mà kẻ giếtngười sẽ gánh chịu. Một tên sát nhân man rơ,ï khoái trá khi phạm tội ác, có lẽsẽ được tái sinh trong một thế giới tồn tại mà ta gọi là "Địa ngục".Một trường hợp kém khốc liệt hơn- ví dụ, một kẻ giết người vì tự vệ- có thể sẽđược tái sinh nơi một "Địa ngục" chịu ít đau đớn hơn. Những hành viphi đạo đức gây ra những hậu qủa không nghiêm trọng lắm có thể làm cho mộtngười bị tái sinh làm con vật- không có khả năng rèn luyện tâm hồn.

Khi người ta được táisinh làm con người, những hậu quả của những hành vi phi đạo đức trong kiếptrước sẽ quyết định hoàn cảnh của người đó ở kiếp tái sinh mới theo nhiều cách.Giết chóc trong kiếp trước thì kiếp này phải chịu cuộc đời có tuổi thọ ngắnngủi hoặc mang nhiều bệnh tật; giết chóc cũng tạo ra khuynh hướng sẽ tiếp tụcgiết chóc ở kiếp sau. Tương tự, trộm cắp ở kiếp trước thì kiếp này bị nghèo khổhoặc bị trộm cắp; trộm cắp ở kiếp trước cũng có khuynh hướng tiếp tục trộm cắpở kiếp này. Tội lăng loàn ngoại tình sẽ dẫn đến hậu quả là kiếp sau phải chịusự phản bội. Đây là một số hậu quả của 3 hành vi phi đạo đức mà chúng ta phảigánh chịu.

Trong bốn hành vi phiđạo đức về lời nói thì nói dối dẫn đến một cuộc đời mà mọi người sẽ đặt điềuxấu cho mình . Nói dối cũng có khuynh hướng là sẽ tiếp tục nói dối ở kiếp sau,bị mọi người lừa dối hoặc mọi người sẽ không tin bạn kể cả khi bạn nói thật. Hậuquả phải gánh chịu ở kiếp sau vì những lời nói gây bất hòa chia rẽ, bao gồm sựcô đơn và khuynh hướng sẽ tiếp tục gây hại cho người khác. Những lòi nói thôtục lỗ mãng thì sẽ bị mọi người phỉ báng coi khinh hoặc sẽ làm một người cótính tình hung dữ ở kiếp sau. Thói ngồi lê đôi mách sẽ không được mọi ngườilắng nghe và sẽ nói nhảm không ngừng ở kiếp sau.

Cuối cùng,hậu quả của bahành vi phi đạo đức về tâm hồn là gì? Đ ời sống hiện tại chúng ta là kết quảcủa những hành vi của chúng ta ở kiếp trước. Hoàn cảnh tương lai của chúng ta,những thân phận mà chúng ta được tái sinh, những cơ hội mà ta sẽ có được hoặckhông thể có được để cải thiện tâm hồn mình đều tuỳ thuộc vào những hành vi củachúng ta ở kiếp này, những hành vi trong hiện tại của chúng ta.

Mặc dù hoàn cảnh hiệntại của chúng ta được quyết định bởi những hành vi, thái độ của chúng ta trongkiếp trước, chúng ta vẫn phải chịu trách nhiệm về những hành vi phi đạo đức củachúng ta trong hiện tại. Chúng ta có khả năng và trách nhiệm điều khiển nhữnghành vi của mình theo xu hướng đạo đức.

Khi chúng ta cân nhắcmột hành vi nào đó, xem xét có hợp với đạo đức hay không, chúng ta nên cân nhắcnhững động cơ thúc đẩy của hành vi đó. Một người nào đó quyết định là sẽ khôngtrộm cắp chỉ vì anh ta sợ rằng trộm cắp sẽ bị bắt và bị trừng phạt bởi phápluật, vậy thì quyết định không trộm cắp của anh ta không được xem là hành viđạo đức, bởi vì trong trường hợp này những suy nghĩ đạo đức không tác động lênquyêt định của anh ta.

Một ví dụ khác, mộtngười quyết định không trộm cắp với đ?ng cơ là do anh ta sợ dư luận:

"Nếu mình trộm cắpthì bạn bè và hàng xóm sẽ nghĩ sao về mình?Chắc là mọi người sẽ khinh bỉ mìnhlắm! Mình sẽ bị mọi người ruồng bỏ". Mặc dù quyết định đó được xem là mộtquyết định tích cực, nó vẫn không được xem là một hành vi đạo đức.

Bây giờ, một người cũngđi đến quyết định là sẽ không trộm cắp bởi vì anh ta suy nghĩ

rằng : "Nếu mìnhtrộm cắp thì có nghĩa là mình tham gia vào một hành vi trái với đạo trời ,tráivới đạo làm người!" Hoặc là: "Trộm cắp là một hành vi phi đạo đức, nólàm cho người khác chịu tổn thất và đau khổ!". Với những động cơ suy nghĩnhư vậy, quyết định của anh ta trong trường hợp này được xem là một hành vi đạođức, hợp luân thường đạo lý. Theo học thuyết của Đức Phật, nếu sự cân nhắccủa bạn dựa trên cơ sở của sự tránh né những hành vi phi đạo đức thì bạn sẽkhông thể vượt qua được những đau khổ buồn phiền, và quyết định đó không đượcxem là một hành vi đạo đức; nếu quyết định của bạn dựa trên cơ sở hạn chế nhữnghành vi phi đạo đức thì quyết định đó được xem là một hành vi đạo đức.

Nếu bạn thấu đáo mọikhía cạnh chi tiết của luật nhân quả thì bạn được xem như một người có được mộttâm hồn toàn thức thông suốt( giác ngộ). Sự hiểu biết tầm thường của chúng takhông thể nắm bắt được đầy đủ hoàn toàn luật nhân quả. Để nắm bắt được mọi lờitruyền dạy của Đức Phật, chúng ta cần phải có được một mức độ tin tưởng nhấtđịnh vào những lời truyền giáo của người! Khi người nói giết chóc thì phải chịusự đoản mệnh, trộm cắp thì phải chịu nghèo túng, thật sự không có cách nào đểchứng minh được những lời người nói là đúng. Tuy nhiên, những điều đó phải đượcchúng ta tin tưởng tuyệt đối. Chúng ta phải có được một niềm tin mạnh mẽ nơiĐức Phật và học thuyết của người. Chúng ta phải tiếp thu những lời truyền giáocủa người một cách nghiêm túc với những lập luận chắc chắn. Bằng cách nghiêncứu những đề tài của Dharma được sáng lập bởi những suy luận hợp lý- những lờitruyền dạy của Đức Phật về tính tạm thời và trống rỗng của cuộc đời, chúng tasẽ khám phá về những điều này ở chương 13- và nhận ra rằng chúng thật sự đúngđắn thì niềm tin của chúng ta có được nơi những lời truyền dạy mơ hồ đó-ví dụ,luật nhân quả sẽ tự nhiên tăng lên . Khi chúng ta muốn tìm kiếm một lời khuyên,chúng ta tìm gặp một người nào đo ùxứng đáng cho ta lời khuyên. Lời khuyên củangười đó càng rõ ràng hợp lý thì chúng ta càng trân trọng, tin tưởng vào lờikhuyên đó. Niềm tin của bạn vào những lời khuyên của Đức Phật cũng sẽ tăng lêntheo xu hướng như vậy.

Tôi tin rằng chúng tacần phải có một ít sự từng trải và một ít hứng thú để có được một niềm tin sâusắc thành khẩn trong lòng. Dường như có 2 hình thức của sự từng trải khác nhau.Có người rất sùng đạo, họ có những kinh nghiệm mà chúng ta khó có thể có được.Và có những kinh nghiệm mà chúng ta đạt được qua sự luyện tập hàng ngày. Chúngta có thể phát triển những ý thức về sự ngắn ngủi tạm thời của cuộc đời. Chúngta có thể nhận thấy được sự tàn phá của những cảm xúc đau khổ . Chúng ta có thểcó được lòng từ bi quảng đại hơn hoặc lòng kiên nhẫn mạnh mẽ hơn khi chúng taphải xếp hàng chờ đợi.

Những kinh nghiệm nhưvậy tạo cho chúng ta một cảm giác hài lòng và thỏa mãn , và lòng tin của chúngta vào những lời truyền dạy mà chúng ta đã được nghe cũng tăng lên. Lòng tincủa chúng ta vào những bậc thầy của mình người truyền cho chúng ta những kinhnghiệm này , cũng tăng lên. Lòng tin vào học thuyết mà vị thầy của chúng tađang theo đuổi và chỉ dạy cũng tăng lên. Từ những kinh nghiệmthực tế, chúng tacó thể tiên đoán được rằng việc luyện tập của chúng ta sẽ được đỉnh cao, giốngnhư những người đã được lưu danh đời đời trong quá khứ.

Những niềm tin hợp lýnhư vậy có được nhờ sự luyện tập tâm hồn, giúp chúng ta cũng cố sự tin cậy vàonhững lời giãng của Đức Phật về luật nhân quả. Hơn nữa, những niềm tin này giúpchúng ta quyết tâm từ bỏ những hành vi phi đạo đức gây đau khổ cho chúng ta.Niềm tin này giúp chúng ta cố gắng thiền định và nhận ra là chúng ta đã có lòngtin và biết được lòng tin đó xuất phát từ đâu. Sự phản xạ này được xem là mộtphần trong quá trình thiền định của chúng ta. Nó cũng cố sự tin cậy của chúngta vào 3 nơi nương tựa: Đức Phật, Dharma và Shangha- giúp chúng ta có thêm dũngkhí để tiếp bước.

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
28/01/2021(Xem: 6365)
Chúng ta đã quen với thể loại thơ Thiền sáng tác nhiều thế kỷ trước từ các ngài Trần Nhân Tông, Tuệ Trung Thượng Sỹ, Hương Hải… Hay gần đây như với thơ của các ngài Nhất Hạnh, Mãn Giác, Tuệ Sỹ, Minh Đức Triều Tâm Ảnh, Ni Trưởng Trí Hải… Đó là nói cho chặt chẽ. Nếu nói cho nới rộng hơn, thơ Thiền cũng là Bùi Giáng, Phạm Công Thiện, Trịnh Công Sơn… Mỗi thời đại đều có những nét riêng, mỗi tác giả cũng là một thế giới độc đáo. Mặt khác, thơ Thiền mỗi quốc độ cũng khác. Trong khi phần lớn thơ Thiền Nhật Bản cô đọng với thể haiku, thơ Thiền Trung Hoa có nhiều bài hùng mạnh như tiếng sư tử hống, như với Chứng Đạo Ca của ngài Huyền Giác, hay Tín Tâm Minh của ngài Tăng Xán. Không ngộ được tự tâm, sẽ không có văn phong đầy sức mạnh như thế. Nơi đây, chúng ta nêu câu hỏi: Làn gió Thiền Tông đã ảnh hưởng vào thơ Hoa Kỳ ra sao? Và sẽ giới thiệu về bốn nhà thơ.
28/01/2021(Xem: 6392)
Mọi người đều biết câu chuyện Xá Lợi Phất thăm Cấp Cô Độc khi bị bịnh nặng và giảng cho Cấp Cô Độc bài pháp về quán chiếu, khi thiền trong Tứ Niệm Xứ mà chữa bịnh cho Cấp Cô Độc. Quán về Phật pháp tăng, 18 giới gồm 6 căn 6 trần 6 thức, rồi quán về 7 đại: đất nước gió lửa không kiến thức, quán về thời gian không gian và cuối cùng là quán về 5 uẩn. Cấp Cô Độc nghe xong hết bịnh. Cũng câu chuyện như vậy, nhưng nó khác đi chi tiết là lúc về già sắp mất: Xá Lợi Phất khai thị Cấp Cô Độc chú trọng về 5 uẩn, hãy trả 5 uẩn về lại cho 5 uẩn khi duyên hội tụ đã hết. Hãy trả Pháp về lại cho Pháp. Và Cấp Cô Độc chết thành A la hán vì đã ngộ được đạo về cõi trời.
28/01/2021(Xem: 5534)
Chùa Thiếu Lâm Tự mở ra khóa ngồi thiền cho 18 vị tu thành A la Hán. Khoá tu này trong 30 ngày ngồi trong tịnh thất suốt ngày đêm. Vị chủ trì là Hòa thượng trụ trì của Thiếu Lâm Tự. Thời bấy giờ là mùa xuân, cảnh đẹp hoa nở và thời tiết ấm áp. Mọi thiền sinh miệt mài tập trung thiền định đạt được 30 ngày miên mật thì bỗng xảy ra tiếng nói vọng vào từ ngoài cửa. Giọng nói đầy êm dịu thanh thoát và trong trẻo của một cô gái. Mỗi tiếng phát âm đi sâu vào tim người nghe một cảm giác êm dịu nhẹ nhàng như vuốt ve trái tim của con người.
27/01/2021(Xem: 3861)
Kính thưa quý đọc giả, tôi đột nhiên thấy được quyển sách với nhan đề “Khéo Dùng Cái Tâm” do Hội Phật Học Bát Nhã biên soạn, liền mượn về ngay để nghiên cứu. Tôi sở dĩ nghiên cứu tác phẩm này là do chủ đề “Khéo Dùng Cái Tâm” lôi cuốn tư tưởng của tôi. Chủ đề rất hấp dẫn khiến tôi tò mò không biết nội dung trong đó nói gì đành phải bỏ hết thời gian để đọc cho xong. Toàn bộ quyển sách chỉ nói về Ma Nhập, nhưng quý đọc giả cần phải đọc qua để biết Ma Nhập quan hệ như thế nào đối với con người chúng ta, đồng thời cần phải tỏ tường để tránh né và đối trị.
27/01/2021(Xem: 3952)
Đức Phật ngồi thiền 49 ngày dưới cội Bồ Đề mới ngộ được đạo tìm được đường giải thoát cho chúng sinh khỏi sinh tử luân hồi. Từ đó đến nay trên 2000 năm biết bao nhiêu cách tọa thiền, đi thiền, nằm thiền, trà thiền, tất cả quá nhiều phương pháp đường lối. Từ Nguyên thủy đến Đại thừa, có rất nhiều đường lối thiền.
27/01/2021(Xem: 4733)
Khi Đức Phật cố gắng ra được bìa rừng với thân đói rét gầy xương do tu khổ hạnh lâu ngày. Ngài kiệt sức và được cô bé chăn bò Cát Tường cho uống bát sữa, Người mới bảo cùng 5 anh em Kiều Trần Như rằng tu khổ hạnh diệt thân này là sai lầm không thể đạt được giác ngộ. 5 anh em Kiều Trần Như có người chế nhạo Đức Phật là con vua hoàng tử sống sung sướng nên không chịu nổi tu khổ hạnh. Riêng người anh cả bảo không phải vậy. Đức Phật chia tay với 5 anh em Kiều Trần Như và hẹn khi nào đạt được giác ngộ sẽ giảng ưu tiên cho 5 anh em.
25/01/2021(Xem: 4747)
Phật Giáo có mặt ở Mỹ vào giữa thế kỷ thứ 19, qua giới trí thức văn nghệ sĩ và các di dân từ Trung Hoa và Nhật Bản. Nhưng phải đợi đến đầu thế kỷ 20, khi học giả và thiền sư người Nhật Daisetsu Teitaro Suzuki viết sách bằng tiếng Anh truyền bá Thiền Tông tại Mỹ thì mới làm cho Thiền Phật Giáo thành món ăn tinh thần đặc biệt và hấp dẫn không những với người Mỹ mà còn với cả thế giới Tây Phương.
25/01/2021(Xem: 5122)
Ngày nay, vấn đề kỳ thị chủng tộc, giai cấp, giới tính được con người quan tâm và tranh đấu quyết liệt hơn bao giờ hết. Có lẽ một phần là do sự văn minh tiến bộ của xã hội đã giúp mở rộng nhận thức và tâm thức con người đối với những vấn đề xã hội như thế. Trong đó không thể không nói đến nhiều đóng góp của các phong trào dân quyền, nhân quyền, bình quyền, nữ quyền, v.v… trên thế giới từ vài thế kỷ qua đã xây dựng những nền tảng về lý thuyết và thực hành cho công cuộc đấu tranh đòi quyền sống và bình đẳng cho từng cá nhân trong cộng đồng xã hội.
22/01/2021(Xem: 5266)
Ngày 11 tháng 11 năm 2020 là sinh nhật thứ 199 năm của nhà văn và triết gia người Nga Fyodor Dostoevsky [sinh ngày 11 tháng 11 năm 1821]. Các tác phẩm văn học của ông đã khám phá tâm lý con người trong bầu không khí chính trị, xã hội và tâm linh bất an của xã hội Nga vào thế kỷ thứ 19, và liên hệ tới nhiều chủ đề triết học và tôn giáo, theo www.en.wikipedia.org
22/01/2021(Xem: 6544)
Emily Elizabeth Dickison là nhà thơ lớn của Mỹ trong thế kỷ thứ 19. Bà sống phần lớn cuộc đời trong cô độc. Bà chưa bao giờ lập gia đình. Bà có sở thích mặc đồ trắng và rất hiếm khi tiếp khách, thậm chí bà còn không muốn ra khỏi giường ngủ. Bà đã để lại một di sản văn học đồ sộ với khoảng 1,800 bài thơ. Bà có ảnh hưởng rất lớn đối với nền văn học Mỹ và được xem là nhà thơ tiền hiện đại tiên phong, theo www.en.wikipedia.org.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]