Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chương III: Thế Giới Vật Chất Và Phi Vật Chất

08/12/201016:44(Xem: 11116)
Chương III: Thế Giới Vật Chất Và Phi Vật Chất

 

TẤM LÒNG RỘNG MỞ
LUYỆN TẬP LÒNG TỪ BI TRONG ĐỜI SỐNG HÀNG NGÀY

Tác giả Dalai Lama - Lê Tuyên biên dịch - Lê Gia hiệu đính
Dịch từ nguyên tác tiếng Anh: An Open Heart Practicing Compassion in EverydayLife

CHƯƠNG III
THẾ GIỚI VẬT CHẤT VÀ PHI VẬT CHẤT
(THE MATERIAL ANDIMMATERIAL WORLD)


Đến đây chúng ta đã thảoluận việc rèn luyện tâm hồn là gì theo quan điểm của Phật giáo và chúng ta phảilàm sao để thay đổi những thói quen thay đổi cũ và phát triển thói quen suynghĩ mới. Chúng ta thực hiện những điều đó qua việc ứng dụng những hình thứcthiền định- một quá trình hòa mình vào những đức tính nhân hậu đem đến niềmhạnh phúc cho chúng ta. Qúa trình này giúp chúng ta đạt được những đức tínhnhân hậu đó và nhận thức được những chân lý sâu sắc tiềm ẩn trong lòng chúng taqua đời sống hàng ngày. Bây giờ chúng ta sẽ khảo sát xem những trạng thái tinhthần của chúng ta phát sinh, theo cách mà những đối tượng phát sinh, trong mộtthế giới vật chất như thế nào.

Trong thế giới vật chấtcủa chúng ta, mọi vật tồn tại nhờ vào sự kết hợp của một số nguyên nhân và điềukiện. Một mầm cây có thể mọc lên nhờ vào hạt giống, nước, ánh sáng mặt tròi vàkhoáng chất. Không có những yếu tố này thì mầm cây không có đủ những điều kiệncần thiết để đâm chồi nảy lá. Cũng theo cách đó, mọi đối tượng đều không tồntại được nếu chúng gặp phải những hoàn cảnh và điều kiện không thuận lợi. Nếunhư vật chất tiến triển mà không cần phải dựa vào một số nguyên nhân và điềukiện thì mọi vật sẽ mãi mãi ở cùng một trạng thái. Khi vật chất tồn tại màkhông cần một số nguyên nhân và điều kiện nhất định nào cả thì chẳng có gì gâyảnh hưởng tác động lên nó được. Hoặc là mầm cây sẽ tồn tại mà không cần phải cóhạt giống hoặ là chúng ta sẽ tồn tại mãi mãi. Vậy thì, chúng ta có thể nói rằngnguyên nhân và điều kiện là căn nguyên cấu thànhvũ trụ.

Trong Phật giáo, chúngta nói về hai hình thức điển hình của nguyên nhân. Đầu tiên là những nguyênnhân thiết yếu. Ở ví dụ trên, nguyên nhân chính yếu là hạt giống, trong khinước ,ánh sáng,khoáng chất được xem là những nguyên nhân hoặc điều kiện thứ yếucủa mầm cây. Mọi vật tồn tại và phát triển dựa vào một số nguyên nhân và điềukiện, hoặc chính yếu ,hoặc thứ yếu, không chịu ảnh hưởng của con người hoặcnhững phẩm chất phi thường của Đức Phật. Bản chất của mọi vật chất đơn giản lànhư vậy đó !

Trong Phật giáo, chúngta tin rằng những đối tượng trừu tượng cũng có những bản chất như những đốitượng cụ thể. Cùng lúc, theo quan điểm Phật giáo, khả năng nhận thức được nhữngđối tượng trừu tượng của chúng ta không thể cung cấp được đầy đủ những thôngtin về chúng. Một thí dụ điển hình về những đối tượng trừu tượng là khái niệmvề thời gian. Thời gian tồn tại song song với thế giới vật chất cụ thể nhưngchúng ta không thể chỉ ra được là nó tồn tại theo cách nào. Một ví dụ nữa là"ý thức" những biện pháp mà ta nhận biết được mọisự vật xung quanh,nếm trải những niềm vui vàđau khổ. "YÙ thức" không được xem là mộtđối tượng cụ thể.

Mặc dù không cụ thể,những trạng thái tinh thần của chúng ta cũng xuất hiện và tồn tại do một sốnguyên nhân và điều kiện nhất định- giống như là những đối tượng vật chất cụthể. Vì vậy ,chúng ta cần phải trau dồi sự hiểu biết của mình về việc cấu thànhnguyên nhân. Nguyên nhân chính yếu tạo ra những trạng thái tinh thần của chúngta trong quá khứ. Vì thế,mỗi ý thức trong hiện tại của chúng ta chính là nguyênnhân tạo ra những ý thức sau này của chúng ta. Kiểm soát được những nguyên nhânvà điều kiện , chúng ta kiểm soát được tâm hồn mình. Thiền định là một phươngpháp khéo léo để chúng ta có thể ứng dụng làm được việc này, chúng ta áp đặtmột số điều kiện đặc biệt nào đó lên tâm trí của mình nhằm tạo ra những kết quảnhư mong nuốn - một tâm hồn đức hạnh.

Về căn bản, điều này thểhiện qua hai cách. Cách thứ nhất, xảy ra khi những nguyên nhân điều kiện thứyếu làm phát sinh một trạng thái tinh thần.

Một ví dụ, chúng takhông tin tưởng vào một người nào đó, chúng ta thấy rằng những suy nghĩ củachúng ta về người đó là những cảm xúc đen tối, nhưng thực tế thì người đó đángcho chúng ta kính trọng , và tin tưởng. Chúng ta cố tinh phát huy những trạngthái tinh thần đối lập với những cảm xúc đen tối đó, chúng ta liên tục trau dồiniềm tin , dần dần chúng ta nhận thấy là mình đã tạo ra được một sự thay đổilớn lao trong suy nghĩ và trong tâm hồn mình và rồi chúng ta đạt được kết quảnhư mong muốn- có được niềm tin vào người đó. Chúng ta phải nhớ rằng đây chínhlà một cách đơn giản mà tâm hồn chúng ta làm việc. Chúng ta có th ể ứng dụng kỹthuật này nhằm phát huy mọi đức tính cần thiết cho tâm hồn mình.

Như chúng ta đã xem ởchương trước , thiền định phân giải là một quá trình ứng dụng những kỹ thuậttrau dồi suy nghĩ nhằm làm gia tăng những trạng thái tích cực và loại trừ nhữngtrạng thái tiêu cực trong tâm hồn. Đ ây là quá trình mà những lý thuyết vềnguyên nhân và kết quả được ứng dụng một cách sáng tạo.

Tôi rất tin rằng nhữngthay đổi thật sự trong tâm hồn sẽ xảy ra không chỉ đơn thuần qua việc cầunguyện cho mọi khía cạnh tiêu cực trong tâm hồn biến mất. Những thay đổi thậtsự trong tâm hồn chỉ xảy ra nhờ những nổ lực phối hợp- những nổ lực dựa trênnền tảng thấu hiểu nguyên tắc làm việc của tâm hồn , những cảm xúc khác nhau củatâm hồn và những trạng thái tâm lý ýac động lẫn nhau như thế nào- mà chúng tacó được trong suốt quá trình luyện tập. Nếu chúng ta mong muốn giảm thiểu sứcmạnh của những cảm xúc tiêu cực , chúng ta phải tìm hiểu những nguyên nhân vàđiều kiện cấu thành chúng, chúng ta phải quyết tâm trừ tiệt những cảm xúc tiêucực đó. Đồng thời chúng ta phải phát huy sức mạnh tinh thần nhằm kháng cự lạichúng – nhũng gì mà chúng ta gọi là "Biện pháp đối khán". Đ iều nàycho chúng ta thấy thiền định là quá trình dần dần tạo ra những thay đổi màchúng ta tìm kiếm.

Chúng ta phài thực hiệnviệc này như thế nào? Đầu tiên chúng ta phải xác định được những nhân tố đốikháng của một cảm xúc hoặc thái độ đặc biệt nào đó của chúng ta. Nhân tố đốikháng của lòng khiêm tốn là tính tự cao tự đại. Nhân tố đối kháng của lòngkhoan dung rộng rãi là tính keo kiệt bủn xỉn. Sau khi xác định được những nhântố này, chúng ta quyết tâm tiêu diệt tẩy xóa chúng ra khỏi tâm hồn. Trong khichúng ta tập trung vào nhũng nhân tố đối kháng này ,chúng ta cũng phải thổibùng lên ngọn lữa của những phẩm chất đạo đức tích cực mà chúng ta muốn tiếpthu. Khi chúng ta cảm thấy là mình quá keo kiệt, chúng ta nổ lực tối đa để bàitrừ thói keo kiệt và liên tục phát huy lòng khoan dung rộng rãi. Khi chúng tathấy là mình qúa nôn nóng, chúng ta quyết tâm trau dồi đức kiên nhẫn.

Khi chúng ta nhận thấyrằng một suy nghĩ nào đó của chúng ta gây ảnh hưởng lên tạng thái tâm lý củamình , chúng ta nên sẵn sàng đối phó với nó .Khi nhận biết được trạng thái tâmlý tiêu cực nào đó vừa xuất hiện, chúng ta phải bằng mọi cách chống trả lại nó.Khi chúng ta nhận thấy tâm trí của chúng ta có xu hướng trở nên tức giận về mộtngười nào đó mà chúng ta không thích, chúng ta phải lập tức ngăn mình lại,chúng ta phải chuyển tâm trí của mình sang những vấn đề khác, Chúng ta khó cóthể kềm chế được sự tức giận khi bị kích động, trừ khi chúng ta đã từng rènluyện đức bìng tĩnh, nếu không chúng ta sẽ dễ dàng trở nên tức giận khi bị kíchđộng. Vậy nên,chúng ta phải bắt đầu luyện tập đức bình tĩnh kiên nhẩn của mìnhngay từ bây giờ, không nên để chúng ta đến lúc thật sự tức giận rồi mới luyệntập. Chúng ta phải nhớ lại khi chúng ta nóng giận thì chúng ta mất bình tĩnhtới mức độ nào, chúng ta bị phân tâm không thể tập trung vào công việc như thếnào, và thái độ của chúng ta đối v?i mọi người trở nên khó chịu như thế nào.Các bạn nên có những lối suy nghĩ tích cực như thế và dần dần các bạn sẽ có thểkềm chế được sự tức giận của mình.

Một nhà sư Tây Tạng nổitiếng đã luyện tập bằng cách quan sát, theo dõi tâm trí của mình. Ô ng vạch mộtvạch đen lên bức tường trong phòng mình mỗi khi ông có những suy nghĩ những bấtchính. Ban đầu bức tường của ông ta dầy đặc những vết đen. Tuy nhiên khi ông tatập trung luyện tập, những suy nghĩ của ông ngày càng đoan chính hơn và rồinhững vạch trắng dần dần thay thế nhũng vạch đen trên tường. Chúng ta nên ápdụng phương pháp rèn luyện tâm hồn như vậy vào đời sống hàng ngày của mình.

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
24/09/2010(Xem: 9692)
Nghèo khó và thịnh vượng là hai điều kiện khác nhau trong số những sự thực của cuộc sống. Bạn, tôi và những người còn lại trong thế giới này rơi vào một trong hai điều kiện ấy. Chúng ta có thể giàu hay nghèo về phương diện của cải vật chất hay phương diện tâm linh. Rõ ràng hai cụm từ này, “nghèo khó” và “thịnh vượng”, có những ngữ nghĩa khác nhau. Trước khi bàn đến những quan điểm của Phật giáo về sự nghèo khó và thịnh vượng, chúng ta cần biết chính xác về ý nghĩa của hai thuật ngữ này.
24/09/2010(Xem: 8035)
Người tham muốn ngủ nghỉ nhiều, thì quá nửa đời mình lẩn quẩn trên chiếc giường, bộ ván; ăn xong lại nghỉ chuyện đi nằm chẳng muốn làm gì hết, khi ngủ xong lại muốn ngủ nữa giống như các loài heo vậy đó, mất cả tự chủ và thể diện của mình. Con người vì không biết rõ thực tướng của vạn vật nên si mê chấp thân tâm làm ngã rồi dẫn đến chiếm hữu, lười biếng, ăn không ngồi rồi. Loài heo vì tham ăn ngon, ngủ kỹ nên mới bị đọa lạc như thế, tối ngày chỉ biết ăn rồi ngủ, ngủ dậy rồi ăn, chẳng biết làm gì.
23/09/2010(Xem: 12445)
Nghi lễ sẽ tạo thành không khí lễ nghĩa, làm cho con người có tập quán đạo đức hướng về điều tốt điều phải một cách tự nhiên. Ở chỗ có mồ mả thì có cái không khí bi ai...
22/09/2010(Xem: 14209)
Nói đến Phật giáo, người ta nghĩ ngay đến đạo Từ bi cứu khổ.Mà hình ảnh cứu khổ tiêu biểu tuyệt vời nhất thiết tưởng không ai khác hơn làđức Bồ tát Quan Thế Âm, hay Mẹ hiền Quan Âm. Vì vị Bồ tát này có đầy đủ phẩmchất của một người mẹ trong tất cả những người mẹ. Hình như trong mọi trái timcủa những người con Phật thuần thành nhất là giới Phật tử bình dân không ai làkhông không có hình ảnh đáng tôn kính của vị Bồ tát giàu lòng bi mẫn này...
22/09/2010(Xem: 12661)
Cuộchành trình miên viễn của kiếp sống trầm luân sáu nẻo luân hồi đã thôithúc rất nhiều người đi tìm những phương pháp để thoát ly khổ não. Hạnh phúc và khổ đau là hai thực trạng của cuộc sống mà con người luôn đề cập tới. Nhưng để biết được hạnh phúc là gì thì con người phải trực nhận ra được bản chất của khổ đau như thế nào rồi mới bàn tới phương pháp giải quyết khổ đau... Sau khi nhận lời thỉnh cầu của Phạm thiên, đức Phật dùng tri kiến thanh tịnh quan sát khắp cả thế giới. Bằng tuệ nhãn, Ngài thấy chúng sanh có nhiều căn tánh bất đồng...
22/09/2010(Xem: 14446)
Ngàynay,lễ Tự tứ không còn đơn thuần mang dấu ấn lớn dành cho chư Tăngtrong giới thiền môn sau ba tháng An cư kiết hạ hàng năm, mà nó đã thựcsự tác động mạnh vào đời sống đạo đức xã hội trong việc xây dựng nếpsống an lạc, hạnh phúc cho con người. Bởi vì, suy cho cùng thì giá trịcủa lễ Tự tứ là sự thể hiện việc quyết định nỗ lực hoàn thiện nhâncách, thăng chứng tâm linh và khai mở trí tuệ đối với mỗi cá nhân conngười trong cuộc sống vốn biến động không ngừng... Nguyên tắc của Tự tứ là phải thanh tịnh hòa hợp, do đó mọi hành giả trong buổi lễ này đều khởi lòng tự tín với chính mình và các vị đồng phạm hạnh khác.
22/09/2010(Xem: 12484)
Trongtấtcả mọi giá trị có mặt ở đời, thì giá trị giải thoát khổ đau làtối thượng nhất, mọi giá trị khác nếu có mặt thì cũng xoay xung quanhtrục giá trị thật này. Vu lan là ngày lễ khiến mỗi người, dù xuất giahay tại gia đều hướng tâm nguyện cầu, thực thi hạnh nguyện giải thoát.Từ điểm nhìn này, thông điệp giải thoát của lễ Vu lan đem lại có nhữngý nghĩa, giá trị cao quý mà ngày nay mọi người thường hay tâm niệm đến... Giá trị giải thoát đầu tiên cần đề cập đến là từ khi đạo Phật được thể nhập vào đời sống văn hóa nước ta thì lễ Vu lan của đạo Phật trở thành lễ hội truyền thống...
22/09/2010(Xem: 7007)
Bất cứ một việc làm gì, khi nhìn kết quả của sự việc, ta sẽ biết nguyên nhơn của việc ấy và ngược lại, nếu muốn biết kết quả của một việc xảy ra cho được tốt đẹp...
21/09/2010(Xem: 7801)
Gần đây, do có nhiều hình ảnh về Mạn Đà La chụp được trong các cuộc lễ cungnghinh Phật Ngọc cầu nguyện hòa bình thế giới tại các chùa ở hải ngoại và được đăng trên một số trang mạng điện tử toàn cầu, cũng như được phổ biến qua thư điện tử, có vị đã viết bài chỉ trích cho rằng đó là “hiện tượng mê tín không nên truyền bá,” đã làm một số Phật tử hoang mang không biết đâu là thật đâu là giả.
21/09/2010(Xem: 9898)
Sợ hãi và lo âu sinh ra bởi sự tưởng tượng của đầu óc bị tác động bởi ngoại cảnh. Cuộc đời là một bức tranh di động, mọi vật đều thường xuyên thay đổi, không có vật gì trên thế gian này đứng yên vĩnh viễn. Những người trẻ trung khỏe mạnh sợ phải chết sớm. Những kẻ già yếu sợ sống lâu. Hạng người trung niên mong muốn được an vui quanh năm. Những điều hân hoan thích thú qua nhanh. Những việc không vui thường tạo ra sự âu lo lâu dài. Những cảm giác làm cho đời sống thăng trầm theo cái bản ngã hư huyễn, giống như con rối múa theo sợi dây.*** Đức Phật đã dạy: " Tham muốn sinh ra lo âu Tham muốn sinh ra sợ hãi, Ai dứt sạch tham muốn Không còn lo âu sợ hãi "
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]