Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Lầu Hoàng Hạc

30/11/201017:10(Xem: 6607)
Lầu Hoàng Hạc


Hoang Phong
MỘT CÕI TỊNH ĐỘ
TRONG MỖI CHÚNG TA
Nhà xuất bản TÔN GIÁO Hà Nội 2010

LẦUHOÀNG HẠC

hoang-hac-lau-04

ThôiHiệu (704-754), người Biện Châu, huyện Khai Phong, nay là mộtthành phố lớn thuộc tỉnh Hà Nam. Thôi Hiệu đi chơi tỉnhVũ Xương, trèo lên lầu Hoàng Hạc tức cảnh đề thơ. Bàithơ viết theo thể thất ngôn, lấy tựa là Lầu Hoàng Hạc,dịch âm như sau :

HoàngHạc Lâu

Tíchnhân dĩ thừa hoàng hạc khứ,
Thửđịa không dư Hoàng Hạc Lâu.

HoàngHạc nhất khứ bất phục phản,

Bạchvân thiên tái không du du.

Tìnhxuyên lịch lịch Hán Dương thụ,

Phươngthảo thê thê Anh Vũ châu.

Nhậtmộ hương quan hà xứ thị,

Yênba giang thượng sử nhân sầu.

ThôiHiệu (thế kỷ thứ 8)

Tạmdịch nghĩa như sau:

Ngườixưa đã cỡi hạc vàng bay xa,
Nơinày chỉ còn trơ lầu Hoàng Hạc,

Hoànghạc bay xa không trở lại,

Ngànnăm mây trắng vẫn trôi hoài.

Trờiquang nhìn thấy cả hàng cây ở tận bến Hán Dương.

Cỏthơm xanh rờn trên bãi sông Anh Vũ.

Chiềuxuống, chẳng biết quê nhà ở phương nao,

Khóisóng trên sông khiến cho ta buồn.

Đãtừng có không biết bao nhiêu thi nhân và những người yêuthơ cổ đã dịch bài thơ này, tôi chỉ xin chép ra đây mộtvài bài diễn nôm được nhiều người biết đến, chẳnghạn như của các cụ Tản Đà, Trần Trọng Kim, Khương HữuDụng.

GácHoàng Hạc


Hạcvàng ai cưỡi đi đâu ?

Màđây Hoàng Hạc riêng lầu còn trơ !

Hạcvàng đi mất từ xưa,

Nghìnnăm mây trắng bây giờ còn bay.

Hándương sông tạnh cây bày,

Bãixa Anh Vũ xanh dày cỏ non.

Quêhương khuất bóng hoàng hôn,

Trênsông khói sóng cho buồn lòng ai ?

TảnĐà dịch

LầuHoàng Hạc

Ngườiđi cỡi hạc từ xưa,

Đấtnày Hoàng Hạc còn lưa một lầu,

Hạcvàng đi mất đã lâu,

Ngànnăm mây trắng một màu mênh mông.

HánDương cây bóng lòng sông,

Bãikia Anh vũ, cỏ trông xanh rì,

Chiềuhôm lai láng lòng quê,

Khóibay sóng vỗ, ủ ê nỗi sầu.

TrầnTrọng Kim dịch

LầuHoàng Hạc

Aicưỡi hạc vàng đi mất hút,

Trơlầu Hoàng Hạc chốn này thôi!

Hạcvàng một đã đi, đi biệt ?

Mâytrắng ngàn năm bay chơi vơi.

Sôngtạnh Hán Dương cây sáng ửng,

Cỏthơm Anh Vũ bãi xanh ngời,

Hoànghôn về đó, quê đâu tá?

Khóisóng trên sông não dạ người.

KhươngHữu Dụng dịch.

Theotôi bản dịch của cụ Tản Đà hay nhất, nhiều thi tính vàít gượng ép. Quả thật khó mà dịch nổi cách đối ngữvà đối ý trong bài thơ của Thôi Hiệu. Bài thơ của ThôiHiệu có tám câu, ý và chữ đều đối nhau từng cặp haicâu và hai chữ. Kỹ thuật đạt đến mức tuyệt đỉnh. Nhạctính của bài thơ thật phong phú. Ông mô tả thật tài tìnhnhững rung động của ông trước thiên nhiên, và những rungđộng đó đã khơi động trong ông một mối hoài cảm sâuxa. Nhìn khói sóng trên sông khi trời chiều buông xuống ôngbỗng nhớ đến quê nhà, một nơi nào đó vạn dặm xa xôi.Trong khung cảnh trời nước bao la, ông cảm thấy mình lẻloi và cô đơn như chiếc tháp cổ đứng trơ vơ bên bờ nướcTrường giang để hoài nhớ một vị tiên đã ra đi hơn mộtngàn năm trước.

Tôiđã có ý định thử dịch bài thơ này xem sao, nhưng sau khiđọc bản diễn nôm của cụ Tản Đà liền bỏ ngay cái ýđịnh điên rồ đó. Cụ Tản đã cản lối những ngườiđi sau mất rồi. Dịch thơ Đường thất ngôn bằng thể lụcbát là một việc táo bạo, tuy nhiên cụ đã thành công khôngchối cải được. Chỉ thấy hai chữ trong bản dịch củacụ có thể thay đổi được:

-Trong câu thứ ba, chữ "đi" có thể thay bằng chữ "bay", vìchim thì bay đúng hơn là đi.

-Trong câu cuối, chữ "ai", có thể thay bằng chữ "ta", vì chữ"ai" tuy nhẹ nhàng nhưng hời hợt và vô tình hơn chữ "ta",chữ "ta" có vẻ thầm kín và đậm đà hơn, trực tiếp khơilên nỗi buồn đang ray rứt trong lòng thi nhân.

Ngoàira Cụ Tản còn dịch tựa của bài thơ là Gác Hoàng Hạc,thiết nghĩ chữ Gác hơi "khiêm nhường" có thể làm mất đitầm "quan trọng" của một kiến trúc lịch sử trong một thắng cảnh lịch sử.

LầuHoàng Hạc là bài thơ mà nhiều người cho là hay nhất củaThôi Hiệu và bài thơ ấy cũng là một trong những bài thơthất ngôn nổi tiếng của cả thời Đường. Theo tích xưa,vào thế kỷ thứ VI trước tây lịch, có một vị tiên cỡimột con hạc vàng đến đáp ở bãi sông Trường Giang. Ngườisau xây một cái tháp tại nơi này để tưởng nhớ đến vịtiên ấy. Ngọn tháp bên bờ Trường giang về sau đã trởthành một danh lam. Sở dĩ nhiều người biết đến và nóiđến ngọn tháp này có lẽ là nhờ vào hai bài thơ, một củaThôi Hiệu là bài Hoàng Hạc Lâu trên đây và một bài kháccủa của Lý Bạch là bài Nơi lầu Hoàng Hạc tiễn Mạnh HạoNhiên đi Quảng Lăng.

ThôiHiệu sinh năm 704, Lý Bạch sinh năm 701, hai người trạc tuổinhau. Thôi Hiệu đề thơ ở lầu Hoàng Hạc trước nhất. Sauđó khi Lý Bạch đến chơi nơi này và nhìn thấy bài thơ củaThôi Hiệu thì liền phóng bút mà phê như sau:

Nhântiền hữu cảnh đạo bất đắc,
ThôiHiệu đề thi tại thượng đầu.


Haicâu này ngày nay thấy khắc bằng chữ thật lớn thếp vàngtrên một phiến đá thật to cạnh bên lầu Hoàng Hạc, chữvà mặt đá còn mới, chắc chắn không phải bút tích củaLý Bạch. Xin tạm dịch nghĩa hai câu ấy như sau:

Thấycảnh đẹp trước mắt chưa tìm ra lời,
Đãthấy thơ của Thôi Hiệu đề trên đỉnh đầu.

Khennhau đến như thế thì quả thật là siêu phàm, không mấyai làm được và viết được. Tuy khen nhưng biết đâu tronglòng cũng tức nhau một tiếng gáy, vì sau này Lý Bạch cũngcó làm một bài thơ về lầu Hoàng Hạc, viết theo thể thấtngôn tuyệt cú. Bài thơ cũng nổi tiếng không kém bài HoàngHạc Lâu của thôi Hiệu. Bài thơ của Lý Bạch như sau:

HoàngHạc Lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng

Cốnhân tây từ Hoàng Hạc lâu,
Yênhoa tam nguyệt há Dương Châu.

Côphàm viễn ảnh bích sơn tận,

Duykiến trường Giang thiên tế lưu.

LýBạch

Tạmdịch nghĩa như sau:

Tiễnbạn từ biệt hướng tây nơi lầu Hoàng Hạc,
Thángba hoa khói, đi Dương Châu.

Cánhbuồm cô độc khuất xa trong vùng núi biếc,

Chỉthấy dòng Trường Giang chảy mãi tận chân trời.

Sauđây là hai bản diễn nôm của các cụ Ngô Tất Tố và TrầnTrọng Kim:

Tạilầu Hoàng Hạc tiễn Mạnh Hạo Nhiên đi Quảng Lăng

Bạntừ lầu Hạc lên đường
Giữamùa hoa khói Châu Dương xuôi dòng

Bóngbuồm đã khuất bầu không

Trôngtheo chỉ thấy dòng sông bên trời


NgôTất Tố dịch

TiễnMạnh Hạo Nhiên ở Hoàng Hạc Lâu đi Quảng Lăng

Phíatây bạn biệt Hạc Lâu
Thángba trẩy xuống Dương Châu thuận dòng.

Cánhbuồm bóng hút màu không,

Trôngxa trắng xóa nước sông bên trời.

TrầnTrọng Kim dịch

Bìnhluận và vạch cái "hay" của Đường thi thì vô tận, chưakể những thêu dệt quá lố của một số phê bình gia. Khôngbiết bao nhiêu sách Tàu và sách Ta nói đến thơ Đường. Ngaycả trong các sách Tây, có những tác giả chỉ cần nghiêncứu, giải thích và bình luận một bài thơ Đường duy nhấtcũng viết thành một quyển sách. Trước hết tôi xin tríchra đây vài chi tiết liên quan đến việc diễn nôm tìm thấytrong một ít sách Ta như sau:

Trongcâu thứ nhất của bài thơ có hai chữ khá khó hiểu là "tâytừ" (từ biệt hướng Tây), các phê bình gia và thinhân của Ta, trong số này có cụ Trần Trọng Kim đều hiểurằng "giã biệt ở hướng Tây lầu Hoàng Hạc".Riêng cụ Ngô Tất Tố thì không thấy nhắc đến hướng Tâytrong câu thơ dịch của cụ, tuy nhiên trong phần ghi chú thìcụ có giải thích rằng Mạnh Hạo Nhiên đi lên phía Tây.Nếu tra cứu kỹ hơn, như trong quyển "Đường thi tam báchthủ" của Lưu Đại Trừng (do một người bạn gốc Hoa thuậtlại cho tôi) thì diễn nghĩa của câu một phải là "Bạncũ đi về hướng Đông, từ biệt nhau ở bên lầu Hoàng Hạc",có lẽ như thế hợp lý hơn vì Mạnh Hạo Nhiên từ biệtphía Tây đi về hướng Đông tức là Dương Châu. Trong mộtcâu thơ cô đọng như thơ Đường mà có đến hai túc từxác định cùng một nơi chốn, vừa chỉ định Lầu HoàngHạc lại còn xác định thêm ở phía Tây của lầu Hoàng Hạc,như thế có lẽ dư. Chẳng lẽ Lý Bạch lại không nhận thấyđiều ấy hay sao ? Mặt khác, ta biết rằng Quảng Lăng vàDương Châu là một, tức ở vào hướng Đông, thuộc tỉnhGiang Tô ngày nay. Mạnh Hạo Nhiên từ biệt hướng Tây đivề hướng Đông. Thơ Đường quả thật tinh vi và bí hiểm,tính cách bí hiểm chẳng qua vì bài thơ quá cô đọng và cáccâu thơ thì lại quá ngắn và ít chữ.

MạnhHạo Nhiên (689-740) là người Tương Dương, tánh tình phóngkhoáng, không màng danh lợi, ẩn cư đọc sách ở núi LộcMôn, cỡi lừa ngao du sơn thủy, nhất định không đi thi. Năm35 tuổi, xuôi dòng Trường Giang đi về phía Đông du ngoạnvùng Chiết Giang, đến năm 39 tuổi mới quay về Tương Dương.Năm 40 tuổi ông lên Tràng An và tại chốn kinh đô tài thiphú của ông đã làm chấn động cả giới thi nhân thời bấygiờ. Theo quyển sách của Cheng W.F. và Collet H. tựa là"Lý Bạch, vị tiên bị đày xuống hạ giới uống rượumột mình dưới trăng" (Li Po l’immortel banni buvant seul sousla lune, nhà xuất bản Moundarren, ấn bản lần thứ tư, 1990)thì Lý Bạch làm bạn với Mạnh Hạo Nhiên lúc ông mới 28tuổi, Mạnh Hạo Nhiên lúc ấy đã 40. Có lẽ hai người gặpnhau ở kinh đô Tràng An. Vậy thì họ từ biệt nhau ở lầuHoàng Hạc vào thời điểm nào, và Lý Bạch làm bài thơ tiễnMạnh Hạo Nhiên vào năm nào ? Có lẽ vào những năm hai ngườimới quen nhau và cùng du ngoạn ở vùng Ba Hẻm Vực trên sôngTrường Giang và sau đó thì từ biệt nhau bên Lầu Hoàng Hạc?

Trongcâu thứ hai, chữ "yên hoa" (hoa khói)không ai biết đích xác là gì. Trong các bài thơ diễn nômcủa các cụ Trần Trọng Kim và Ngô Tất Tố, thì cụ Kim bỏlững không dịch hai chữ "yên hoa", cụ Tố thì dịch thẳnglà hoa khói. Có sách thì giải thích hoa khói là mưa bụi, tuyếtkhói lấm tấm như hoa v.v. và v.v. Tôi dốt đặc chữ Hán,chỉ biết dùng một chút xúc cảm của riêng mình để đưatôi đến gần với Lý Bạch mà thôi. Nếu đứng ở lầu HoàngHạc nhìn ra Trường Giang thì chỉ thấy có sóng và nước,nên tôi trộm nghĩ "yên hoa" ở đây là khói trên mặt sóng,hoặc khói sóng như hoa trên mặt nước tức là bọt sóng,như thế vừa phù hợp với cảnh vật và cả ý thơ : chữyên (khói) trong thơ Tàu thường đi đôi với cảnh sông nước,và con thuyền của Mạnh Hạo Nhiên thì lướt trên hoasóng của Trường Giang để đi Dương Châu. Hai chữ"yên hoa" cũng gợi lại hình ảnh khói sóng trênsông trong bài thơ Lầu Hoàng Hạc của Thôi Hiệu.

Trongcâu ba thì hầu hết các sách Tàu và sách Ta đều giải thíchcác chữ "bích không tận" là "màu trời xanh vô tận" (cánhbuồm mất hút trong màu trời xanh vô tận). Riêng sách củaLưu Đại Trừng chép là "bích sơn tận", có lẽ tác giả dựavào những bài thơ ký sự của Lục Du (1125-1210) và cho rằngchữ sơn mới đúng là chữ mà Lý Bạch đã dùng. Dù sao thìchữ sơn cũng có vẻ hay hơn chữ không (cánh buồm xadần trong vùng núi biếc), và cũng tránh được sựlập đi lập lại với chữ "thiên tế" (chân trời) trong câubốn tiếp theo sau. Dầu sao thì cũng khó biết được chữnào mà Lý Bạch đã dùng, trừ trường hợp sau này ngườita khám phá được những di cảo thật xưa và đáng tin cậy.

Sauđây là bản dịch bài thơ của Thôi Hiệu sang Pháp văn tìmthấy trong quyển sách tiếng Pháp đã trích dẫn trên đây:

AuPavillon de la Grue jaune, adieu à Meng Hao Jan qui part à Kuan ling

Monvieil ami quitte l’ouest au Pavillon de la Grue jaune
Dansla splendeur des nuées de fleurs au trosième mois, il descend vers Yangchow

Lavoile solitaire, lointaine silhouette, dans l’azure disparaît

Onne voit plus que le Long Fleuve couler au bord du ciel.

ChengW.F. và Collet H., tháng 5, 1988 (Sách xuất bản lần thứ nhất)

Theobản dịch này ta thấy rõ là Mạnh Hạo Nhiên rời hướngTây nơi Lầu Hoàng Hạc và hoa khói có nghĩa là hoa xuântrong tháng ba.Tác giả còn thêm tĩnh từ rực rỡ (splendeur)để chỉ hoa khói(nuées de fleurs), tĩnh từ rựcrỡchẳng những đã không có trong câu thơ của LýBạch lại không phù hợp với ý và xúc cảm của toàn bàithơ, vả lại không hợp lý nữa vì thuyền của Mạnh HạoNhiên lướt đi trên mặt nước Trường Giang chứ không phảitrên hoa xuân rực rỡ. Câu ba không nhắc đến chữ "sơn" haychữ "không", chỉ nói là bóng con thuyền cô độc mất húttrong màu trời xanh. Hai tác giả Cheng và Collet có lẽ cũngkhông hiểu rõ bốn chữ yên hoa tam nguyệtnênđã dịch bốn chữ này là hoa xuân(hoa vào thángba), theo tôi thì tháng ba là một túc từ chỉ thời gian khôngliên hệ gì đến khói sóng trên mặt nước Trường giang.

Tôixin mạn phép góp thêm vài lời dịch vụng về như sau :

HoàngHạc Lâu tiễn Mạnh Hạo Nhiên đi Quảng lăng

Tiễnbạn rời Tây lầu Hoàng Hạc,
Thángba hoa nước mờ chân sóng,

Xuôimái Dương Châu xa cố nhân.

Cánhbuồm hun hút vùng núi biếc,

TrườngGiang chảy mãi tận chân trời.

HoangPhong dịch tại Lầu Hoàng Hạc
Ngày09.09.2001

Bàithơ của Lý Bạch hết sức cô đọng, không thể dịch bằngcách tóm tắt trong bốn câu theo nguyên bản, vì thế tôi xinmạn phép dùng đến năm câu mới lột hết ý của bài thơ.Tôi không quan tâm đến thi luật mà chỉ cố gắng trình bàymột chút xúc cảm và nhạc tính cảm nhận được trong bàithơ của Lý Bạch mà thôi. Xin chân thành tạ lỗi với cụLý và những người đọc các dòng này.

LầuHoàng Hạc nguyên thủy được dựng lên trên một bãi sônggần núi Xà Sơn thuộc Vũ Xương tỉnh Hồ Bắc, sau đượcdời đến gần đầu cầu Vũ Xương thành phố Vũ Hán. Câycầu Vũ Xương bắc ngang sông Trường Giang, khá đồ sộ dongười Nga xây giúp. Cầu có hai tầng, một tầng dành riêngcho xe lửa, một tầng cho xe ô-tô, các loại xe khác và ngườiđi bộ. Gần bên chiếc cầu là khách sạn Holiday Inn cao ngấtvà sang trọng, dành cho du khách đến xem lầu Hoàng Hạc. Phíasau khách sạn là bến đò dùng làm nơi đưa đón du khách ngượcsông Trường Giang đi vào vùng Ba Hẻm Vực. Quả thật ngườisau cũng biết chọn chỗ để làm ăn lắm, không biết họcó nghĩ đến công lao của Thôi Hiệu nặn óc để làm thơgiúp cho lầu Hoàng Hạc được nổi tiếng hay không ?

LầuHoàng Hạc chẳng những đã thay đổi vị trí mà còn đượcxây đi xây lại không biết bao nhiêu lần qua mười mấy thếkỷ nay rồi. Ngày xưa, lầu cất bằng cây nên thường bịcháy. Lầu mới ngày nay dùng thêm vật liệu cứng như gạchđá, và được xây dựng vào thời nhà Thanh, cách nay mộthay hai trăm năm là nhiều. Chiếc lầu mới có trang bị thêmcả thang máy cho du khách lớn tuổi hay những người lườitrèo cầu thang. Vé vào cửa có băng từ tính đọc bằng máyđể dễ kiểm soát từng chặng, giá 30 yuẩn (nhân dân tệ)tức độ chừng 28 quan Pháp. Nếu dùng thang máy đi lên thìdu khách phải trả thêm 2 yuẩn ; nếu dùng thang máy trở xuốngthì rẻ hơn, chỉ phải trả thêm 1 yuẩn thôi.

Mỗingày có hàng ngàn du khách từ xa đến viếng Lầu, vừa tốnkém cho họ lại vừa mất thì giờ chờ đợi vì quá đôngngười. Họ ồn ào, tấp nập, tuy nhiên họ vẫn kiên nhẫnxếp hàng mua vé và nối đuôi nhau chờ đến lượt lên lầu.Người xưa thì phải khổ sở xây đi xây lại không biếtbao nhiêu lần cái Lầu Hoàng Hạc, dời hết chỗ này đếnchỗ khác. Tất cả chẳng qua cũng vì một vài xúc cảm nhỏnhoi của thi nhân mà ra cả. Vỉ thế người ta cũng có thểnghĩ đến cảnh một nhà sư Tây Tạng ngồi trong một hangnúi phát động lòng từ bi của mình để trải rộng ra támphương trời mười phương Phật, hướng vào từng sinh vậtnhỏ nhoi trên hành tinh này và tất cả chúng sinh trong khônggian vô tận, cũng biết đâu có thể mang lại một chút tácđộng nào đó trong không gian mênh mộng và trong đáy tim nhỏbé của của nhà sư. Mọi hiện tượng chung quanh ta, thuộcthế giới vật chất hay phi vật chất, kể cả sự sống,xúc cảm, tư duy cho đến hành động của mỗi cá thể đềuliên đới với nhau, tác động chằng chịt với nhau, pháthiện và biến dạng không ngừng.

LầuHoàng Hạc không cao lắm, tôi quên đếm nhưng hình như cónăm tầng kể cả tầng trệt, cầu thang cũng dễ đi, ngườiđông chen lấn nhau. Trên tầng cao nhất, người ta có thểnhìn thấy cây cầu do người Nga xây cất, bắc ngang sông TrườngGiang, xe cộ tấp nập trên cầu. Khói ô nhiễm của thành phốtỏa rộng mù mịt trên sông và phố xá. Các tòa nhà chọctrời san sát nhau trên hai bờ sông, nhiều vô kể. Phải cómột chút tâm hồn thi sĩ và nhất là phải nhắm mắt lạimới thấy được hàng cây xanh ở bến Hán Dương và cỏ thơmtrên bãi Anh Vũ. Nếu cố gắng tưởng tượng mạnh hơn mộtchút nữa thì may ra sẽ có thể thấy được cánh buồm củaMạnh Hạo Nhiên mất hút ở chân trời trong vùng núi biếc.

Đứngtrên Lầu Hoàng Hạc, ngưởi ta chẳng thấy có gì là thậtcả. Trước mắt không phải cái quang cảnh mà Thôi Hiệu vàLý Bạch đã thấy. Kể cả cái lầu cũng không phải cái lầumà Thôi Hiệu và Lý Bạch đã trèo lên để làm thơ. Chẳngqua tôi "thấy" những chuyện xưa ở trong đầu của tôi màthôi, bằng cái trí tưởng tượng của mình. Cái thấy méomó đó chắc gì đã đúng với "cái thấy" của Thôi Hiệuvà Lý Bạch từ hơn 12 thế kỷ trước. Ấy là chưa nói đếncái "thấy" của hai ông cũng đã bị lệch lạc vì những xúccảm trong lòng hai ông. Cảnh thật của Lầu Hoàng Hạc khôngbiết ở đâu. Quả thật khó mà tìm, có thể là không có? Nhưng nếu không có thì làm sao lại có hai bài thơ đượctruyền tụng đến ngày nay ? Vậy muốn tin là « không có »thì trước hết phải « có » cái đã, nhưng nếu ta cho rằng« có » thì lại sai, vì cái Lầu Hoàng Hạc là cái lầu nàođây ? Có phải là cái lầu mà tôi đang đứng trên tầng caonhất để nhìn ra chiếc cầu do người Nga bắc ngang dòng TrườngGiang hay không ? Nhất định là như thế vì tôi đang đứngtrên nền gạch hoa mòn nhẵn vì vết chân của du khách trêntầng cao nhất của Lầu Hoàng Hạc để nhìn khói mây ô nhiễntỏa mù trên thành phố và trên mặt nước Trường giang.

Bures-Sur-Yvette,28.10.2001

Source: thuvienhoasen


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
23/08/2020(Xem: 5504)
Cư sĩ Julian Bound và nữ cư sĩ Ann Lachieze, họa sĩ minh họa sách nổi tiếng rất quý mến thân thiện với nhau khi tuổi còn ấu thơ, không ngờ nửa thế kỷ sau họ cùng hợp tác để xuất bản sách mới về Phật giáo. Tác phẩm này là một truyện về thiếu nhi Phật tử, với tựa đề “The Little Monk who loved his Noodles” (Chú tiểu yêu thích món mì) được viết bởi cư sĩ Julian Bound và minh họa bởi cư sĩ Ann Lachieze.
23/08/2020(Xem: 6233)
Thời nay mà còn nói đến chữ “hiếu” sẽ có người cho là cổ hủ, lỗi thời. Kỳ thực, đạo hiếu, đạo làm con (1) thời xưa đã bị chê là lỗi thời theo sự xuống trào, mất ảnh hưởng của Việt-Nho từ giữa thế kỷ 19 rồi, không phải đợi đến ngày nay.
21/08/2020(Xem: 5098)
Trên vách hai bên tả hữu mặt tiền của chánh điện An Tường Ni Tự (phường Vĩnh Phước- Nha Trang), khi đứng ngắm nghía để chụp hình, tôi thấy có hai bản thư pháp tiếng Hán, tạm gọi là vậy, được chạm nổi và được sơn màu nâu trên nền màu vàng nhạt, rất ấn tượng. Là người dốt đặc tiếng Hán, nên tôi không hiểu chút xíu xiu mảy may nào về ý nghĩa của hai bản thư pháp này, nhưng nhìn cách trình bày theo "ngũ ngôn tứ cú" thì tôi cũng đoán ra được đó có lẽ là hai bài... thơ, mà nếu đang được chạm nổi trên vách của chánh điện chùa thì dám chắc luôn phải là hai bài... Kệ.
21/08/2020(Xem: 6387)
Xem như từ cuối năm 2019, dịch Corona khởi phát từ Vũ Hán đến tháng 3/2020 đã trở thành “đại dịch” Covid-19, đang lan tràn khắp toàn cầu, đến nay đã 215 quốc gia và vùng lãnh thổ bị lây nhiễm với số liệu tính đến ngày 20/8/2020 theo iHS VIET NAM như sau: người mắc: 22.454.505 điều trị khỏi: 15.169.811 người tử vong: 787.385
21/08/2020(Xem: 5521)
Vào hôm thứ Hai, ngày 27 tháng 7 năm 2020, một cuộc họp trực tuyến (online) của nội các do bà Sheikh Hasina, Thủ tướng Chính phủ Bangladesh chủ trì, đã thông qua dự thảo thỏa thuận giữa Tổ chức Lumbini Development Trust of Nepal và Chính phủ nước Cộng hoà Nhân dân Bangladesh về việc xây dựng tu viện Phật giáo Bangladesh. Tu viện Phật giáo được đề xuất sẽ được xây dựng tại Lâm Tỳ Ni, nơi Đản sinh của Đức Phật lịch sử. Việc xây dựng được bắt đầu với lợi ích cá nhân, và kế hoạch của Đại sứ Đặc mệnh toàn quyền nước Cộng hòa Nhân dân Bangladesh tại Nepal, Mashfee Binte Shams, và Bí thư thứ nhất, Asit Baran Sarkar.
20/08/2020(Xem: 6748)
Kinh Kim Cang Bát Nhã được ngài Cưu Ma La Thập (344-413) dịch từ tiếng Phạn sang Hán văn, và được thái tử Chiêu Minh (499-529) chia bố cục ra 32 chương. Đây là một trong những bộ kinh quan yếu nhất của Thiền Tông Trung Hoa đặc biệt từ thời Lục Tổ Huệ Năng (638- 713), người đã ngộ đạo, kiến tánh qua câu "Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm" trong lời khai thị từ Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn (601-674). Cụm từ "Ưng Vô Sở Trụ" được nhắc đến hai lần trong kinh: lần 1st ở chương 4 ("Diệu Hạnh Vô Trụ") và lần 2nd ở chương 10th ("Trang Nghiêm Tịnh Độ). Đây không là sự trùng lặp mà mà là sự tiến triển vi diệu về ý nghĩa của cụm từ này với rất nhiều hàm tàng đặc sắc và quan trọng trong phân biệt nhận thức theo Duy Thức Học cùng hành trì tu tập Phật đạo.
17/08/2020(Xem: 12213)
Năm 2020 những chương trình tu học Phật pháp như Phật Đản,Vu Lan, Khoá Tu Học Bắc Mỹ, Khoá an cư của Giáo Hội.v.v...khắp toàn cầu đều phải tạm ngưng vì nạn dịch COVID-19. Tại Mỹ và một số các nước, tất cả học đường phải đóng cửa và chuyển qua online. Giáo sư và sinh viên phải chật vật vì một hệ thống mới hoàn toàn. Sự thay đổi đó làm tất cả mọi người xôn xao và lo lắng, bất an...Bản thân chúng con, lịch giảng của các bang được sắp xếp vào năm trước-2019 phải huỷ bỏ. Phật tử khắp nơi gọi đến thăm hỏi và mong ước có được một lớp học Phật pháp bằng một phương tiện nào đó để tâm được an, thân được nhẹ từ lời giảng dạy trực tiếp của Chư Tăng-Ni. Đây cũng là điều mà chúng con trăn trở và tham vấn ý kiến của Chư tôn đức để chúng con có thể mở ra một chương trình tu học online miễn phí cho tất cả quý Phật tử khắp nơi trên thế giới.
16/08/2020(Xem: 8735)
Người giải thoát giống như một bánh xe quay tròn đều, không bị mắc kẹt, vướng bận, thanh thoát, thông suốt. Họ không còn ý niệm “tôi là như thế này, tôi là như thế nọ, tôi là đây, tôi là kia”. Người tu nhẫn nhục mà thấy ta đang nhẫn nhục là mắc kẹt rồi. Càng nhẫn nhục chừng nào thì CÁI TA càng lớn chừng đó. Nhẫn nhục mà không thấy ta nhẫn nhục thì mới thông suốt. Người tu hạnh khiêm cung mà thấy mình khiêm cung là mà mắc kẹt rồi. Càng khiêm cung chừng nào, thì CÁI TA càng lớn chừng đó. Tu riết như vậy lâu ngày thành bịnh, hết thuốc chữa vì kẹt lâu ngày, bánh xe không quay tròn đều được, thậm chí không thể chuyển động được vì các bộ phận bị ô-xy hóa, bị rỉ sét do chấp pháp, chấp tướng lâu ngày, thành thử bệnh nặng.
16/08/2020(Xem: 5891)
Một pho tượng Phật, được phát hiện trong khi đào móng cho một ngôi nhà tại Mardan, Mardan là một thành phố thuộc Khyber Pakhtunkhwa, Pakistan, hôm thứ Bảy, ngày 18 tháng 7 vừa qua, đã bị công nhân xây dựng địa phương đập vỡ thành nhiều mảnh bởi họ không tôn trọng thánh tích Phật giáo, khiến chính quyền địa phương phẫn nộ và lo lắng.
16/08/2020(Xem: 6142)
Cư sĩ Milton Glaser, người Mỹ, nhà Thiết kế Đồ họa hiện đại, với nhiều công trình nổi tiếng và bền bỉ. Ông đã từ giã trần gian và đã để lại ấn tượng những hình ảnh Phật giáo. Cư sĩ Milton Glaser, người Mỹ, nhà Thiết kế Đồ họa hiện đại đã mãn báo thân, trút hơi thở cuối cùng tại quận Manhattan, thành phố New York, Hoa Kỳ vào ngày 26 tháng 6 vừa qua, vào ngày Sinh nhật lần thứ 91 của ông.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]